Nobita091275 (ST)
Nước ta là một quốc gia gồm nhiều dân tộc hợp thành đại gia đình dân tộc
Việt Nam.
Trong 54 dân tộc chỉ có dân tộc Việt (Kinh) là đông nhất (hơn 80% dân số), các
dân tộc còn lại đều là thiểu số (ngôn ngữ thường ngày gọi chung là "đồng
bào dân tộc"). Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, các dân tộc sống trên lãnh
thổ Việt Nam
đã đoàn kết gắn bó, đồng tâm hiệp lực xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước.
Cũng trong trường kỳ lịch sử, các thế lực thù địch luôn dùng mọi thủ đoạn hòng
phá vỡ khối đoàn kết toàn dân để thực hiện những ý đồ đen tối của chúng. Chiến
lược "Diễn biến hoà bình" (DBHB) do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động quốc tế tiến hành chống Việt Nam được triển khai một cách toàn diện,
cả kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hoá... ở mọi miền dân cư, mọi đối tượng
xã hội. Song chúng thường tập trung mũi nhọn vào những điểm, những khu vực mà
chúng cho là dễ "diễn biến", để từ đó xây dựng bàn đạp, tạo thời cơ,
dựng "ngọn cờ", dựng "nguyên cớ" để can thiệp sâu hơn, thực
hiện mục tiêu xoá bỏ CNXH ở Việt Nam, đưa Việt Nam vào qũy đạo của chúng.
Vùng đồng bào dân tộc là một trong những trọng điểm của chiến lược
"DBHB". Sở dĩ các thế lực thù địch triệt để "khai thác"
vùng đồng bào dân tộc vì phần lớn đồng bào sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới, hải đảo và còn rất nhiều khó khăn so với cả nước. Xin nêu một số thực
trạng:
Theo Uỷ ban Dân tộc và miền núi, tình trạng lạc hậu, đói nghèo ở
vùng đồng bào dân tộc còn phổ biến. Đến cuối năm 1999, Chính phủ đã xét duyệt,
đưa 10 tỉnh vùng cao, 9 tỉnh miền núi, 23 tỉnh có miền núi với tổng số
4.360 xã, phường, thị trấn vào phân định ba khu vực vùng núi và vùng dân tộc,
làm cơ sở cho các bộ, ngành đầu tư theo địa bàn, quy mô và thời gian cụ thể
nhằm xoá đói giảm nghèo cho đồng bào. Có những tỉnh, tổng thu nhập chỉ đạt 1/4
hoặc 1/3 ngân sách, còn lại do Nhà nước bao cấp. Số xã được xếp vào "khu
vực III" (khu vực đặc biệt khó khăn) là 1.715 xã. Vùng sâu, vùng xa đi lại
khó khăn, cơ sở hạ tầng lạc hậu... Tỷ lệ nghèo đói ở phạm vi cả nước là 13%,
riêng vùng núi, vùng sâu, vùng xa cao hơn nhiều. Tỉnh Lai Châu, tỷ lệ nghèo đói
là 38,7%; 38/154 xã, phường, thị trấn chưa có đường ôtô, 48 xã chưa có trạm xá;
9 vạn người trong độ tuổi 15-35 chưa biết chữ; 42.000 trẻ em đang độ tuổi chưa
đến trường (số liệu báo cáo của Bộ Chỉ huy quân sự Lai Châu tháng 8.1999).
Hiện tượng di cư tự do còn diễn ra với số lượng lớn, kéo dài, đặc biệt
vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên. Trên địa bàn Quân khu II, trong 2 năm
1997-1998 có 2.151 hộ với 14.226 nhân khẩu, 5 tháng đầu năm 1999 có 814 hộ với
4.671 nhân khẩu di cư (số liệu của Cục Chính trị Quân khu). Di cư tự do đã ảnh
hưởng lớn đến an ninh chính trị, kinh tế, văn hoá ở các địa phương có dân đến
và dân đi, tạo nên sự xáo trộn về phân bố dân cư. Chính quyền rất khó quản lý,
điều hành. Nạn đốt rừng tràn lan, săn bắt thú quý hiếm, ảnh hưởng trực tiếp đến
môi sinh và cuộc sống lâu dài của đồng bào. Tình trạng tranh chấp đất đai gia
tăng.
Đáng lưu ý đời sống văn hoá của đồng bào dân tộc còn lạc hậu, dân trí
thấp, tình trạng lạc hậu về thông tin là rất phổ biến (nhất là những nơi chưa
có điện); một số luật tục lỗi thời, phản khoa học chưa được loại bỏ triệt để.
Nhiều giá trị văn hoá truyền thống bị mai một biến tướng do sự thâm nhập
của những luồng văn hoá không lành mạnh. Các tệ nạn xã hội như nghiện hút và
buôn bán ma túy, mại dâm, trộm cướp, buôn bán hàng lậu, hàng giả... là một mũi
nhọn đánh vào kinh tế, phá rối trật tự an ninh vùng đồng bào dân tộc.
Hệ thống chính trị ở vùng đồng vào dân tộc còn nhiều mặt chưa đáp ứng yêu
cầu mới đặt ra. Không ít cán bộ xã, thôn, bản, trình độ học vấn còn rất thấp,
hiểu biết về quản lý, chủ trương, chính sách và pháp luật còn rất hạn chế. Do
đó công tác quản lý an ninh chính trị địa bàn và giải quyết những vướng mắc ở
cơ sở của đội ngũ cán bộ chính quyền địa phương còn rất bất cập. Vì thế, chính
quyền quản lý dân không chặt chẽ, không đủ khả năng vận động, tổ chức, hướng
dẫn nhân dân làm ăn và giải thích cho dân hiểu âm mưu, thủ đoạn phá hoại của
địch... Khi có sự việc xảy ra, chính quyền không xử lý kịp thời. Có xã, nhân
dân đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai hàng chục lần vẫn không thấy cán bộ
đến, để mâu thuẫn căng thẳng dẫn tới xô xát, thương vong. Mặc dù dân nghèo
nhưng một số cán bộ vẫn sách nhiễu, gây phiền hà, đòi quà cáp, hối lộ. Trong
khi đó bọn người xấu, những người truyền đạo trái phép len lỏi vào từng bản
làng, từng gia đình tuyên truyền, mua chuộc, lôi kéo dân theo chúng, càng làm
cho tình hình an ninh chính trị phức tạp.
Tóm lại, tình trạng đói nghèo, lạc hậu, dân trí thấp, ít thông tin, quản
lý giáo dục thiếu chặt chẽ... là "cơ hội ngàn vàng" để các thế lực
thù địch lợi dụng phá hoại nhiều mặt, tuyên truyền xuyên tạc, "tranh thủ
trái tim, khối óc" đồng bào dân tộc. Thủ đoạn của chúng vẫn là dùng người
dân tộc chống người dân tộc, dùng dân tộc này chống dân tộc khác, chia cắt, xé
lẻ khối đại đoàn kết toàn dân để dễ bề thao túng. Hiện nay chúng đang tập trung
thực hiện một số thủ đoạn chính sau đây:
- Tuyên truyền, kích động tâm lý dân
tộc, khai thác các yếu tố lịch sử, văn hoá, gây mầm mống chia rẽ, ly khai. Đồng
thời xuyên tạc, nói xấu chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
đồng bào dân tộc và miền núi. Từ đó dụ dỗ, lôi kéo đồng bào di cư tự do đi tìm
vua, tìm chúa, tìm Tổ quốc riêng.
- Nuôi dưỡng bọn phản động lưu vong người dân tộc, tạo điều kiện vật
chất, tinh thần cho chúng hoạt động, đào tạo bồi dưỡng người của các tổ chức
phản động, xây dựng căn cứ làm bàn đạp xâm nhập vào trong nước.
- Lợi dụng việc tham quan, du lịch, thăm thân nhân, núp dưới các hình
thức viện trợ nhân đạo, giúp đỡ xoá đói, giảm nghèo để thâm nhập địa bàn, tuyên
truyền móc nối với các phần tử phản động, bất mãn, chống đối, tranh thủ những
người có uy tín trong dòng họ, trong làng bản (tốt nhất là cán bộ, đảng viên)
để xây dựng các tổ chức phản động. Đồng thời, tăng cường xây dựng củng cố mạng
lưới gián điệp, thu thập tình báo và hoạt động phá hoại, khơi dậy những nhân tố
mất ổn định trong từng vùng dân tộc.
- Tuyên truyền, kích động đồng bào dân tộc chống lại chủ trương, chính
sách kinh tế-xã hội của Đảng và Nhà nước như chống chủ trương ba bỏ: bỏ trồng
cây thuốc phiện, bỏ du canh, dư cư, bỏ mê tín dị đoan; đưa yêu sách được công
nhận là tín đồ đạo Tin lành, làm nhà nguyện...
Những thủ đoạn thâm độc của địch đã và đang gây ra nhiều tác hại ở vùng
dân tộc và miền núi:
- Làm cho một bộ phận đồng bào các dân tộc hoang mang, lo sợ, thiếu tin
tưởng ở đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, mơ hồ ảo tưởng trông chờ
vào thế lực siêu nhiên (vua, chúa, Vàng Chứ...), khiến đời sống ngày càng sa
sút, đói nghèo thêm.
- Gây chia rẽ trong nội bộ các dân tộc, bản làng, dòng họ, gia đình...
dẫn đến mâu thuẫn khó giải quyết và hậu quả lâu dài.
- Tạo nên việc di dân tự do, bỏ nhà cửa, ruộng nương đi tìm miền đất mới
dẫn đến đói rét, bệnh tật, thất học. Kèm theo đó là nạn phá rừng, tranh chấp đất
đai, nghiện hút, trộm cắp, vi phạm quy chế biên giới, quy chế quản lý hộ tịch,
hộ khẩu...
Hiện nay, bọn phản động đang vận động, lôi kéo bà con dân tộc H'Mông di
cư về vùng biên giới Tây Bắc. Đồng thời chúng tăng cường hoạt động ở vùng Tây
Nguyên và vùng đồng bào Khơme Nam Bộ với những ý đồ thâm hiểm, tạo "điểm
nóng" rồi lấy cớ can thiệp... Để góp phần làm thất bại âm mưu
"DBHB", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, xây dựng "vành
đai chính trị an toàn" vùng đồng bào dân tộc, cần thực hiện một số giải
pháp sau:
- Trước hết và quan trọng nhất là phát
triển kinh tế, ổn định đời sống, xoá đói, giảm nghèo. Trong mấy năm gần đây,
Nhà nước đã đầu tư nhiều dự án, nhưng do nhiều nguyên nhân nên kết quả chưa đủ
sức làm biến đổi căn bản bộ mặt vùng sâu, vùng xa. Nhân dân ở "khu vực
III" so với vài ba chục năm trước đây, chưa có tiến bộ đáng kể. Vì vậy,
cùng với mục tiêu tổng thể phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, cần phải chi
tiết hoá các dự án, chia thành từng bước, có mục tiêu cụ thể, có kiểm tra đánh
giá, cái gì được thì phát huy, chưa được thì bổ sung, sửa chữa; cơ quan, cá
nhân nào làm sai, làm ẩu, ăn chặn của dân phải xử phạt nghiêm minh. Vấn đề hàng
đầu là xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm). Các dự án
không nên rải đều mà tập trung giải quyết khâu cấp bách nhất, điểm khó khăn
nhất (ví dụ: làm đường ôtô vào xã, xây trường học), có thời hạn hoàn thành các
chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật cụ thể.
- Đẩy mạnh cuộc vận động định canh,
định cư, hạn chế tiến tới chấm dứt di cư tự do là khâu rất quan trọng để ổn
định tình hình kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh. Ban chỉ huy thống nhất
tỉnh, huyện, các đoàn (đội) công tác cùng với chi bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và đoàn thể quần chúng địa phương kiên trì giáo dục, thuyết phục, vận động
đồng bào định canh, định cư; chỉ ra tác hại của di cư tự do, trong đó có âm mưu
phá hoại của địch. Giao chỉ tiêu cho từng đoàn thể, từng thôn bản thi đua vận
động 100% thành viên của mình không di cư tự do. Mặt khác, hướng dẫn đồng bào
cách làm ăn (theo lối "cầm tay chỉ việc"), áp dụng kỹ thuật canh tác
mới trong trồng trọt và chăn nuôi, xác định được cây, con thích hợp để có hiệu
quả kinh tế rõ rệt, tạo niềm tin, phấn khởi, yên tâm sản xuất, xây dựng bản
làng. Vận động bà con bỏ nếp canh tác cũ, lạc hậu. Đồng thời phát động phong
trào vệ sinh, phòng bệnh, không chữa bệnh theo thói quen, thiếu khoa học. Tiếp
tục giải quyết hậu quả của tình trạng di cư tự do một cách hợp lý, đúng chính
sách, không gây khó khăn thêm cho đồng bào.
- Kiểm soát chặt chẽ khách tham quan, du lịch, người qua lại vùng biên
giới, xây dựng địa bàn an toàn. Phát hiện kịp thời và ngăn chặn những kẻ lợi
dụng qua lại, gieo rắc luận điệu phản động, truyền đạo trái phép, cùng những
việc làm mờ ám khác.
- Khôi phục, phát triển văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc,
đặc biệt những giá trị văn hoá giàu tính nhân văn, giàu bản sắc dân tộc,
thành nội dung, hình thức chủ đạo trong sinh hoạt văn hoá của
thôn bản.
Kết hợp phổ biến đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh đấu
tranh với những biểu hiện tiêu cực trong đời sống văn hoá, kiên quyết ngăn chặn
các tệ nạn xã hội nguy hiểm như ma túy, mại dâm, trộm cướp...
- Do trình độ cán bộ cơ sở còn yếu nên cần tăng cường sự chỉ đạo, giúp đỡ
của Trung ương, tỉnh, huyện. Ban Chỉ huy thống nhất tỉnh, huyện do Thường vụ
Tỉnh uỷ, Huyện uỷ và Thường trực Uỷ ban trực tiếp chỉ đạo. Đồng thời thành lập
các đoàn (đội) công tác gồm cán bộ các ban, ngành, đoàn thể có tổ chức chỉ huy
chặt chẽ, có kế hoạch hoạt động cụ thể. Để làm tốt nhiệm vụ, các đoàn,
đội công tác phải chuẩn bị chu đáo về nội dung, tài liệu, phương tiện, phải
biết tiếng dân tộc, nắm vững phong tục, tập quán của họ và thực hiện “ba cùng”
với họ. Thời gian mỗi đợt công tác ít nhất là 6 tháng, có sơ kết, rút kinh
nghiệm bổ sung cho những đợt sau. Khẩn trương bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi
mặt cho cán bộ cơ sở. Trước mắt là thanh toán nạn mù chữ, sau đó nâng dần lên.
Bằng mọi giá, các xã phải có trường phổ thông cơ sở, trong những năm tới, phấn
đấu hoàn thành phổ cập cấp I, xoá mù chữ cho những người trong độ tuổi...
Cần phải tiến hành những giải pháp trên
đồng bộ, liên tục. Thực hiện tốt các giải pháp cơ bản đó góp phần đưa chính
sách dân tộc và miền núi của Đảng và Nhà nước trở thành hiện thực, góp phần xây
dựng "vành đai chính trị an toàn", làm thất bại âm mưu "Diễn
biến hào bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực phản động trong và ngoài
nước.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét