SỰ NẢY SINH HÌNH THÀNH TÂM LÝ NGƯỜI Ở PHƯƠNG DIỆN TIẾN
HÓA CHỦNG LOẠI VÀ TIẾN HÓA CÁ THỂ
TS Đ.Q Psy11
Tâm
lý, ý thức là kết quả của sự phát triển lâu dài của vật chất. Sự nảy sinh, phát
triển tâm lý, ý thức gắn liền với sự sống. Xét về mặt tiến hóa chủng loại thì tâm
lý, ý thức nảy sinh và phát triển qua 3 giai đoạn lớn:
-
Từ vật chất chưa có sự sống phát triển thành vật chất
có sự sống.
-
Từ sinh vật chưa có cảm giác phát triển thành sinh vật
có cảm giác và các hiện tượng tâm lý khác nhưng chưa có ý thức.
-
Từ động vật cấp cao chưa có ý thức phát triển thành
người, thành chủ thể đã có ý thức.
1.
Sự nảy sinh và hình thành tâm lý về phương diện chủng
loại
Ở những loài sinh vật dưới mức côn trùng (các loài
nguyên sinh, bọt bể…) chưa có tế bào thần kinh hoặc nếu có đi chăng nữa thì
mạng thần kinh phân tán khắp cơ thể và chỉ mới có tính chịu kích thích. Tính
chịu kích thích là khả năng đáp trả lại các kích thích của môi trường ảnh hưởng
trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của cơ thể. Đây là cơ sở cho tính cảm
ứng (nhạy cảm) xuất hiện.
Phản ánh tâm lý đầu tiên được nảy sinh dưới hình
thái nhạy cảm (tính cảm ứng). Trên cơ sở tính chịu kích thích, ở một số loài
côn trùng như: giun, ong… bắt đầu xuất hiện hệ thần kinh mấu (hạch). Tính nhạy
cảm được xem là mầm mống đầu tiên của tâm lý. Từ hiện tượng tâm lý đơn giản
nhất này (cảm giác) phát triển lên thành các hiện tượng tâm lý phức tạp hơn.
Sự phát triển
tâm lý của con người đã trải qua 3 thời kỳ cơ bản: cảm giác, tri giác, tư duy
(bằng tay và ngôn ngữ). Tuy nhiên xét theo nguồn gốc nảy sinh hành vi thì 3
thời kỳ đó là: bản năng, trí tuệ và kỹ xảo.
Cảm giác là thời kỳ đầu tiên trong phản ánh tâm lý
có ở động vật không xương sống. Ở thời kỳ này, con vật chỉ mới đáp trả từng
kích thích riêng lẽ. Ở động vật bậc cao và con người cũng có thời kỳ cảm giác
nhưng cảm giác này khác so với cảm giác của loài vật.
Tri giác bắt đầu xuất hiện ở loài cá. Hệ thần kinh
hình ống với tủy sống và vỏ não giúp cho động vật từ loài cá trở đi có thể đáp
trả lại tổ hợp các kích thích của môi trường. Từ loài lưỡng cư, bò sát, chim
đến động vật có vú thì tri giác đạt đến mức độ hoàn chỉnh nhưng tri giác của
con người thì phát triển hơn cả.
Thời kỳ tư duy được chia làm hai giai đoạn: tư duy
bằng tay và tư duy bằng ngôn ngữ. Cách nay khoảng hơn 10 triệu năm, loại vượn
Oxtralopitec có võ não phát triển, đã biết dùng hai bàn tay để sờ mó, láp ráp,
giải quyết các tình huống cụ thể trước mặt, loại tư duy này được gọi là tư duy
bằng tay hay tư duy cụ thể. Ở con người, tư duy bằng ngôn ngữ mới phát triển.
Nhờ tư duy bằng ngôn ngữ mà hoạt động của con người có tính mục đích, có tính
kế hoạch cao nhất và hoàn chỉnh nhất từ đó con người không chỉ nhận thức và cải
tạo thế giới mà còn có thể tự nhận thức và điều chỉnh bản thân.
Theo cách tiếp cận nảy sinh hành vi thì từ loài côn
trùng trở đi bắt đầu có hành vi bản năng. Bản năng là những hành vi bẩm sinh,
mang tính di truyền, có cơ sở sinh lý là phản xạ vô điều kiện và mang tính ổn
định của loài. Các loài động vật có xương sống và con người cũng có bản năng.
Tuy nhiên, bản năng của con người chịu sự chi phối của ý thức, có sự tham gia
của tư duy, mang tính xã hội và mang đặc điểm lịch sử loài người.
Thời kỳ kỹ xảo xuất hiện sau thời kỳ bản năng trên
cơ sở luyện tập. Hành vi kỹ xảo được lặp đi lặp lại nhiều lần và dần định hình
trong não động vật.
Thời kỳ hành vi trí tuệ là kết quả của sự luyện tập,
do cá thể tự tạo trong đời sống. Hành vi trí tuệ của vượn người chủ yếu tập
trung giải quyết các tình huống cụ thể có liên quan đến việc thỏa mãn các nhu
cầu mang tính bản năng của cơ thể. Hành vi trí tuệ của con người được nảy sinh
thông qua hoạt động, được xem là sản phẩm của hoạt động nhằm nhận thức bản
chất, mối quan hệ có tính quy luật, thích ứng và cải tạo thế giới khách quan.
Hành vi trí tuệ của con người gắn liền với ngôn ngữ và ý thức.
2.
Các giai đoạn phát triển tâm lý người về phương diện
cá thể
Sự phát triển tâm lý của con người từ lúc sinh ra
cho đến khi từ giã cõi đời trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn có những đặc
trưng cơ bản và ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển tâm lý của cá nhân. Vì
thế, việc phân định chính xác các giai đoạn phát triển tâm lý người, nhận biết
các dấu hiệu đặc trưng, tìm hiểu vai trò, quy luật phát triển, cơ chế chuyển
tiếp giữa các giai đoạn… có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận cũng như thực
tiễn.
Giai đoạn phát triển tâm lý là một trong những vấn
đề quan trọng trong Tâm lý học được nhiều nhà tâm lý học trên thế giới quan tâm
(L.X. Vugotxki, A.N. Leonchiev, D.B. Elkonin, H.Walon, J.Piaget… Theo L.X.
Vugotxki, giai đoạn phát triển là thời kỳ hay mức độ phát triển nhất định đóng
kín một cách tương đối, đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình phát
triển chung, trong đó những quy luật phát triển được thể hiện một cách độc đáo
khác về chất so với các thời kỳ khác.
J.Piaget thì cho rằng, giai đoạn phát triển tâm lý
là những hình thức tổ chức hoạt động tâm lý dưới 2 khía cạnh thống nhất với
nhau, một mặt là khía cạnh vận động hoặc trí tuệ, mặt kia là cảm xúc, cũng như
xác định theo 2 chiều:cá nhân và xã hội.
A.N.Leonchiev và D.B.Elconin căn cứ vào hoạt động và
hoạt động chủ đạo để phân chia các giai đoạn phát triển. D.B.Elconin cho rằng,
từ lúc ra đời cho đến khi trưởng thành, sự phát triển tâm lý của trẻ em trải
qua những giai đoạn có chất lượng riêng, kế tiếp nhau. Mỗi giai đoạn được tính
theo mối quan hệ nào của trẻ với thực tại là chủ đạo, loại hoạt động nào là chủ
đạo. Vậy hoạt động chủ đạo là gì?
Hoạt động chủ
đạo là hoạt động đặc trưng cho trẻ em ở mỗi giai đoạn lứa tuổi, có tác dụng tạo
ra những nét tâm lý mới làm nảy sinh các nhu cầu, hứng thú chủ yếu của trẻ ở
lứa tuổi đó.
Các loại hoạt động chủ đạo
STT
|
GIAI ĐOẠN
|
ĐỘ TUỔI
|
HOẠT ĐỘNG
CHỦ ĐẠO/HOẠT ĐỘNG
|
1
|
Hài nhi
|
0 – 1
|
Hoạt
động giao lưu cảm xúc trực tiếp với người lớn
|
2
|
Ấu nhi
|
1 – 3
|
Hoạt
động với đồ vật
|
3
|
Mẫu
giáo
|
3 – 6
|
Hoạt
động vui chơi (trò chơi sắm vai có chủ đề)
|
4
|
Học
sinh nhỏ
|
6 - 10,11
|
Hoạt
động học tập
|
5
|
Thiếu
niên
|
10, 11-14,15
|
Hoạt
động giao lưu tâm tình
|
6
|
Thanh
niên mới lớn
|
14,15-17,18
|
Hoạt
động học tập, hướng nghiệp
|
7
|
Tuổi
sinh viên
|
19 - 22,25
|
Học
tập, trang bị tri thức, kỹ năng nghề nghiệp
|
8
|
Người
trưởng thành trẻ tuổi
|
25 – 40
|
Lập
nghiệp, lập thân
|
9
|
Tuổi
trung niên
|
40 – 60
|
Lao
động, chăm lo cho con cái, phụng dưỡng cha mẹ
|
10
|
Tuổi
già
|
>60
|
Nghỉ
ngơi, hoài niệm về quá khứ
|
Sự phát triển tâm lý của cá nhân có thể được xác
định từ giai đoạn “thai giáo” đến giai đoạn tuổi già. Tuy nhiên, giai đoạn
“thai giáo” đang có rất nhiều quan điểm khác nhau và chưa đi đến thống nhất, vì
thế sự phát triển tâm lý của cá nhân sẽ được xác định từ sơ sinh cho đến tuổi
già và được cụ thể hóa như sau:
-
Hài nhi (0-1 tuổi)
-
Ấu nhi (1-3 tuổi
-
Mẫu giáo (3-6 tuổi)
-
Học sinh nhỏ (6-10, 11 tuổi)
-
Thiếu niên (10,11-15 tuổi)
-
Thanh niên mới lớn (14,15-18
tuổi)
-
Tuổi sinh viên (19-22, 25
tuổi)
-
Người trưởng thành trẻ tuổi
(22,25-40 tuổi)
-
Tuổi trung niên (40-60 tuổi)
-
Tuổi già (> 60 tuổi)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét