Thứ Ba, 7 tháng 11, 2017

SỰ NẢY SINH HÌNH THÀNH TÂM LÝ NGƯỜI Ở PHƯƠNG DIỆN TIẾN HÓA CHỦNG LOẠI VÀ TIẾN HÓA CÁ THỂ
TS Đ.Q Psy11
Tâm lý, ý thức là kết quả của sự phát triển lâu dài của vật chất. Sự nảy sinh, phát triển tâm lý, ý thức gắn liền với sự sống. Xét về mặt tiến hóa chủng loại thì tâm lý, ý thức nảy sinh và phát triển qua 3 giai đoạn lớn:
-        Từ vật chất chưa có sự sống phát triển thành vật chất có sự sống.
-        Từ sinh vật chưa có cảm giác phát triển thành sinh vật có cảm giác và các hiện tượng tâm lý khác nhưng chưa có ý thức.
-        Từ động vật cấp cao chưa có ý thức phát triển thành người, thành chủ thể đã có ý thức.
1.     Sự nảy sinh và hình thành tâm lý về phương diện chủng loại
Ở những loài sinh vật dưới mức côn trùng (các loài nguyên sinh, bọt bể…) chưa có tế bào thần kinh hoặc nếu có đi chăng nữa thì mạng thần kinh phân tán khắp cơ thể và chỉ mới có tính chịu kích thích. Tính chịu kích thích là khả năng đáp trả lại các kích thích của môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của cơ thể. Đây là cơ sở cho tính cảm ứng (nhạy cảm) xuất hiện.
Phản ánh tâm lý đầu tiên được nảy sinh dưới hình thái nhạy cảm (tính cảm ứng). Trên cơ sở tính chịu kích thích, ở một số loài côn trùng như: giun, ong… bắt đầu xuất hiện hệ thần kinh mấu (hạch). Tính nhạy cảm được xem là mầm mống đầu tiên của tâm lý. Từ hiện tượng tâm lý đơn giản nhất này (cảm giác) phát triển lên thành các hiện tượng tâm lý phức tạp hơn.
 Sự phát triển tâm lý của con người đã trải qua 3 thời kỳ cơ bản: cảm giác, tri giác, tư duy (bằng tay và ngôn ngữ). Tuy nhiên xét theo nguồn gốc nảy sinh hành vi thì 3 thời kỳ đó là: bản năng, trí tuệ và kỹ xảo.
Cảm giác là thời kỳ đầu tiên trong phản ánh tâm lý có ở động vật không xương sống. Ở thời kỳ này, con vật chỉ mới đáp trả từng kích thích riêng lẽ. Ở động vật bậc cao và con người cũng có thời kỳ cảm giác nhưng cảm giác này khác so với cảm giác của loài vật.
Tri giác bắt đầu xuất hiện ở loài cá. Hệ thần kinh hình ống với tủy sống và vỏ não giúp cho động vật từ loài cá trở đi có thể đáp trả lại tổ hợp các kích thích của môi trường. Từ loài lưỡng cư, bò sát, chim đến động vật có vú thì tri giác đạt đến mức độ hoàn chỉnh nhưng tri giác của con người thì phát triển hơn cả.
Thời kỳ tư duy được chia làm hai giai đoạn: tư duy bằng tay và tư duy bằng ngôn ngữ. Cách nay khoảng hơn 10 triệu năm, loại vượn Oxtralopitec có võ não phát triển, đã biết dùng hai bàn tay để sờ mó, láp ráp, giải quyết các tình huống cụ thể trước mặt, loại tư duy này được gọi là tư duy bằng tay hay tư duy cụ thể. Ở con người, tư duy bằng ngôn ngữ mới phát triển. Nhờ tư duy bằng ngôn ngữ mà hoạt động của con người có tính mục đích, có tính kế hoạch cao nhất và hoàn chỉnh nhất từ đó con người không chỉ nhận thức và cải tạo thế giới mà còn có thể tự nhận thức và điều chỉnh bản thân.
Theo cách tiếp cận nảy sinh hành vi thì từ loài côn trùng trở đi bắt đầu có hành vi bản năng. Bản năng là những hành vi bẩm sinh, mang tính di truyền, có cơ sở sinh lý là phản xạ vô điều kiện và mang tính ổn định của loài. Các loài động vật có xương sống và con người cũng có bản năng. Tuy nhiên, bản năng của con người chịu sự chi phối của ý thức, có sự tham gia của tư duy, mang tính xã hội và mang đặc điểm lịch sử loài người.
Thời kỳ kỹ xảo xuất hiện sau thời kỳ bản năng trên cơ sở luyện tập. Hành vi kỹ xảo được lặp đi lặp lại nhiều lần và dần định hình trong não động vật.
Thời kỳ hành vi trí tuệ là kết quả của sự luyện tập, do cá thể tự tạo trong đời sống. Hành vi trí tuệ của vượn người chủ yếu tập trung giải quyết các tình huống cụ thể có liên quan đến việc thỏa mãn các nhu cầu mang tính bản năng của cơ thể. Hành vi trí tuệ của con người được nảy sinh thông qua hoạt động, được xem là sản phẩm của hoạt động nhằm nhận thức bản chất, mối quan hệ có tính quy luật, thích ứng và cải tạo thế giới khách quan. Hành vi trí tuệ của con người gắn liền với ngôn ngữ và ý thức.
2.     Các giai đoạn phát triển tâm lý người về phương diện cá thể
Sự phát triển tâm lý của con người từ lúc sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn có những đặc trưng cơ bản và ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển tâm lý của cá nhân. Vì thế, việc phân định chính xác các giai đoạn phát triển tâm lý người, nhận biết các dấu hiệu đặc trưng, tìm hiểu vai trò, quy luật phát triển, cơ chế chuyển tiếp giữa các giai đoạn… có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn.
Giai đoạn phát triển tâm lý là một trong những vấn đề quan trọng trong Tâm lý học được nhiều nhà tâm lý học trên thế giới quan tâm (L.X. Vugotxki, A.N. Leonchiev, D.B. Elkonin, H.Walon, J.Piaget… Theo L.X. Vugotxki, giai đoạn phát triển là thời kỳ hay mức độ phát triển nhất định đóng kín một cách tương đối, đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình phát triển chung, trong đó những quy luật phát triển được thể hiện một cách độc đáo khác về chất so với các thời kỳ khác.
J.Piaget thì cho rằng, giai đoạn phát triển tâm lý là những hình thức tổ chức hoạt động tâm lý dưới 2 khía cạnh thống nhất với nhau, một mặt là khía cạnh vận động hoặc trí tuệ, mặt kia là cảm xúc, cũng như xác định theo 2 chiều:cá nhân và xã hội.
A.N.Leonchiev và D.B.Elconin căn cứ vào hoạt động và hoạt động chủ đạo để phân chia các giai đoạn phát triển. D.B.Elconin cho rằng, từ lúc ra đời cho đến khi trưởng thành, sự phát triển tâm lý của trẻ em trải qua những giai đoạn có chất lượng riêng, kế tiếp nhau. Mỗi giai đoạn được tính theo mối quan hệ nào của trẻ với thực tại là chủ đạo, loại hoạt động nào là chủ đạo. Vậy hoạt động chủ đạo là gì?
 Hoạt động chủ đạo là hoạt động đặc trưng cho trẻ em ở mỗi giai đoạn lứa tuổi, có tác dụng tạo ra những nét tâm lý mới làm nảy sinh các nhu cầu, hứng thú chủ yếu của trẻ ở lứa tuổi đó.
Các loại hoạt động chủ đạo
STT
GIAI ĐOẠN
ĐỘ TUỔI
HOẠT ĐỘNG CHỦ ĐẠO/HOẠT ĐỘNG
1
Hài nhi
0 – 1
Hoạt động giao lưu cảm xúc trực tiếp với người lớn
2
Ấu nhi
1 – 3
Hoạt động với đồ vật
3
Mẫu giáo
3 – 6
Hoạt động vui chơi (trò chơi sắm vai có chủ đề)
4
Học sinh nhỏ
6 - 10,11
Hoạt động học tập
5
Thiếu niên
10, 11-14,15
Hoạt động giao lưu tâm tình
6
Thanh niên mới lớn
14,15-17,18
Hoạt động học tập, hướng nghiệp
7
Tuổi sinh viên
19 - 22,25
Học tập, trang bị tri thức, kỹ năng nghề nghiệp
8
Người trưởng thành trẻ tuổi
25 – 40
Lập nghiệp, lập thân
9
Tuổi trung niên
40 – 60
Lao động, chăm lo cho con cái, phụng dưỡng cha mẹ
10
Tuổi già
>60
Nghỉ ngơi, hoài niệm về quá khứ
Sự phát triển tâm lý của cá nhân có thể được xác định từ giai đoạn “thai giáo” đến giai đoạn tuổi già. Tuy nhiên, giai đoạn “thai giáo” đang có rất nhiều quan điểm khác nhau và chưa đi đến thống nhất, vì thế sự phát triển tâm lý của cá nhân sẽ được xác định từ sơ sinh cho đến tuổi già và được cụ thể hóa như sau:
-        Hài nhi (0-1 tuổi)
-        Ấu nhi (1-3 tuổi
-        Mẫu giáo (3-6 tuổi)
-        Học sinh nhỏ (6-10, 11 tuổi)
-        Thiếu niên (10,11-15 tuổi)
-        Thanh niên mới lớn (14,15-18 tuổi)
-        Tuổi sinh viên (19-22, 25 tuổi)
-        Người trưởng thành trẻ tuổi (22,25-40 tuổi)
-        Tuổi trung niên (40-60 tuổi)
-        Tuổi già (> 60 tuổi)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét