Thứ Ba, 20 tháng 8, 2019

Luận điệu sai trái, thù địch của Nguyễn Thạch


   Trên trang blog Dân Làm Báo, ngày 05/8/2019, đối tượng Nguyễn Thạch đã đăng tải bài và hình ảnh “Đảng Cộng sản Việt Nam ích kỷ, hèn nhát và tham quyền cố vị”, nội dung xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước, chế độ; bôi nhọ, nói xấu các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quân đội.

Chúng ta khẳng định và đấu tranh mạnh mẽ rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) là Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam, được cả dân tộc tôn vinh và thừa nhận. ĐCSVN là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; Đảng trở thành đảng cầm quyền là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử xuất phát từ chính khát vọng độc lập, tự do của nhân dân. ĐCSVN ra đời, tồn tại, phát triển không vì mục đích tự thân mà vì hạnh phúc của nhân dân. Mục đích duy nhất của Đảng ta là đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh. Đảng, Nhà nước luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thường xuyên lấy ý kiến của nhân dân trong các vấn đề, sự kiện lớn về kinh tế và chính trị của đất nước; luôn luôn thực hiện đúng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; giám sát và quản lý mọi hoạt động xã hội của Đảng và Nhà nước theo Hiến pháp và pháp luật.
Những kết quả và thành tựu đạt được về mọi mặt của đất nước đã khẳng định vị thế, vai trò cầm quyền của ĐCSVN. Thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nguồn sức mạnh to lớn để dân tộc ta liên tiếp giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau hơn 70 năm đất nước độc lập, từ một nước nghèo, kém phát triển, bị tàn phá nặng nề  bởi chiến tranh; với chủ trương, đường lối đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa Việt Nam vươn lên trở thành một quốc gia đang phát triển, tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7%/năm, quy mô và tiềm lực của nền kinh tế không ngừng tăng lên.
Tóm lại, những vấn đề được nêu ra trong bài viết của Nguyễn Thạch đã bộc lộ bản chất phản động, thiếu khách quan, không có cơ sở, cố tình bóp méo sự thật, với mục đích xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước, chế độ; bôi nhọ, nói xấu các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quân đội.
Chúng ta cần nghiêm khắc lên án và cảnh giác với những âm mưu thâm độc này của những bồi bút, phản động./.









Chiêu bài gây chia rẽ Quân đội và Công an Việt Nam của các đối tượng thù địch


Trong thời gian vừa qua, các đối tượng thù địch phản động đã lợi dụng chiêu trò thông qua một số trang mạng để tán phát những giọng điệu, ngụy tạo hình ảnh nhằm tuyên truyền xuyên tạc, nói xấu lực lượng vũ trang (LLVT). Một trong số đó là các đối tượng  có facebook là Luc Dinh, Chân trời mới Medila đã đăng tải bài viết “Nhiệm vụ của Quân đội, Công an Việt Nam ra sao” với nội dung xuyên tạc chức năng, nhiệm vụ của Quân đội và Công an,  gây chia rẽ giữa Quân đội và Công an. Có thể khẳng định những luận điệu trong bài viết là hoàn toàn sai trái và không đúng sự thật, thể hiện sự thiếu hiểu biết của người viết về đặc điểm tình hình Việt Nam cũng như tình hình khu vực và thế giới.

Phòng ngừa và khi cần thì trấn áp tội phạm là một việc làm bình thường theo chức năng, nhiệm vụ được giao của các LLVT. Thế nhưng trên một số mạng xã hội có kẻ post bài lên nói rằng: “Bộ đội, công an đàn áp nhân dân”... Đàn áp và trấn áp tuy có điểm giống nhau về phương thức hoạt động nhưng khác nhau cơ bản về đối tượng tác động. Đàn áp theo từ điển thì đó là hoạt động của chính quyền, thường là trong xã hội phong kiến, thực dân bằng các công cụ bạo lực, cưỡng chế đa số người dân nhằm bảo vệ chính quyền và chế độ xã hội mà họ đang nắm giữ.
Như chúng ta thấy, những năm gần đây, tình hình chính trị thế giới và khu vực diễn ra phức tạp, nhiều nước lớn đã xem châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt Biển Đông là địa bàn “xoay trục”, là “lợi ích cốt lõi” của mình. Nhờ có đường lối chính trị-quốc phòng đúng đắn, Việt Nam đã giữ vững ổn định chính trị xã hội; duy trì được quan hệ quốc tế dựa trên nguyên tắc hòa bình, bình đẳng cùng có lợi. Tuy nhiên đất nước ta vẫn đang đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức.
Đại hội XII của Đảng tái khẳng định 4 nguy cơ. Đó là: (1). Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; (2). Nguy cơ chống phá, “diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến”, xa rời lý tưởng của Đảng, xa rời lợi ích của nhân dân và mục tiêu xây dựng đất nước đi lên CNXH của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; (3). Nguy cơ tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực xã hội, làm suy yếu Đảng; (4). Nguy cơ về bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước, nhất là chủ quyền biển, đảo trước âm mưu, thủ đoạn các nước lớn”. Trong 4 nguy cơ nói trên, trừ nguy cơ “tụt hậu xa hơn về kinh tế”, 3 nguy cơ còn lại đều có thể dẫn đến sự bất ổn xã hội ở những kịch bản khác nhau, trong đó có thể có bạo loạn, lật đổ… thay đổi chế độ. Bởi vậy, sử dụng các công cụ bạo lực, chuyên chính đối với kẻ thù nhằm ngăn ngừa từ sớm, từ xa các nguy cơ bất ổn đối với chế độ là điều tất nhiên.
Thiết nghĩ, trong bối cảnh chính trị ngày nay, mọi người cần nhận thức đúng vai trò, trách nhiệm của các LLVT; nhận thức đúng quyền và trách nhiệm của người dân, không để những kẻ cực đoan lợi dụng dân chủ, nhân quyền vi phạm pháp luật. Các LLVT của chúng ta ngày nay bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc còn có một sứ mệnh lịch sử không kém phần quan trọng, đó là bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ Nhà nước và bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam.     


KHẲNG ĐỊNH QUYỀN CHỦ QUYỀN VÀ QUYỀN TÀI PHÁN CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG


        “Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 08 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của UNCLOS 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên. Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực”.
Khẳng định của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nói trên cho thấy lập trường pháp lý và chủ trương chính trị của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, rõ ràng, thể hiện thiện chí của một quốc gia thành viên có trách nhiệm của UNCLOS 1982, khi trên thực tế, các lực lượng chấp pháp của Việt Nam phát hiện những hoạt động phi pháp của nhóm tàu Hải Dương 08.
Về đấu tranh ngoại giao, Việt Nam đã nhiều lần tiếp xúc với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực.
Căn cứ vào tính chất, mức độ và phạm vi xảy ra vi phạm và xuất phát từ thiện chí, tinh thần trách nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng khu vực và quốc tế, Việt Nam đã cân nhắc một cách thận trọng trước khi áp dụng những hình thức đấu tranh chính trị, pháp lý, truyền thông thích hợp, khá mạnh mẽ và đúng thủ tục pháp lý hiện hành. Nội dung các văn kiện ngoại giao đã phản ánh đầy đủ lập trường nói trên của Việt Nam. Tuy nhiên, không nhất thiết phải được công bố công khai. Đó là một thực tế thông thường trong cách ứng xử giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Dù công bố hay không, giá trị pháp lý vẫn không thay đổi.
Đối chiếu với những quy định của UNCLOS 1982, Luật Biển Việt Nam năm 2012, cũng như các tiền lệ pháp lý, đặc biệt là Phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế The Hague năm 2016, khẳng định trên của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam có căn cứ pháp lý rõ ràng. Bởi vì, khu vực phía Nam Biển Đông được đề cập là khu vực bãi cạn Tư Chính, Vũng Mây, Quế Đường, Huyền Trân… ở cách đường cơ sở thẳng dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam công bố năm 1982 dưới 200 hải lý, thậm chí có khu vực ở cách đường bờ biển ven bờ lục địa đối diện cũng xấp xỉ khoảng trên dưới 200 hải lý. Chúng ta chỉ nhấn mạnh đến khái niệm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý ở khu vực này; bởi vì còn có ranh giới ngoài của thềm lục địa có thể mở rộng ra đến 350 hải lý, nếu có hồ sơ chứng minh bờ ngoài của thềm lục địa kéo dài ra ngoài giới hạn 200 hải lý và được Tiểu ban ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc chấp nhận.
Như vậy Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982), mà Việt Nam và các nước ở Biển Đông đều là thành viên. Do đó, mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam phải tuân thủ các quy định có liên quan của UNCLOS 1982 và pháp luật Việt Nam.


Đảng Cộng sản Việt Nam, chính đảng duy nhất của dân tộc Việt Nam


       Dân tộc Việt Nam trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XX khi chưa có Đảng chìm đắm trong đêm dài nô lệ, bởi sự nô dịch, đàn áp, bóc lột của thực dân-phong kiến. Nhưng từ khi có Đảng ra đời, tổ chức và lãnh đạo, cách mạng Việt Nam từng bước phát triển, giành những thắng lợi vĩ đại. Cách mạng Tháng Tám thành công là một dấu mốc lịch sử khởi đầu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta và tiếp đó là công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thắng lợi oanh liệt đó đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đúng đắn, sáng tạo.
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc. Điều đó được thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng của Đảng là lãnh đạo nhân dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; đồng thời, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng thường xuyên liên hệ mật thiết với quần chúng, lấy tự phê bình và phê bình làm phương châm hành động, quy luật phát triển... Cần khẳng định, việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với chủ nghĩa yêu nước, mà biểu hiện tập trung là sự kết hợp của phong trào công nhân với phong trào yêu nước của quần chúng cách mạng; mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của Đảng luôn thống nhất với mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc và toàn thể nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định, Đảng ta không những là đảng của giai cấp công nhân, mà còn là đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" không phải do Đảng tự đề xướng, mà là có tính chất bắt buộc đối với chính đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp và pháp luật. Vi phạm nguyên tắc này là vi phạm pháp luật, phải bị xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật.
Thực tế là vậy, song các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội chính trị vẫn không ngừng chĩa mũi nhọn công kích, bôi nhọ, nói xấu Đảng bằng những lời lẽ quy chụp, bịa đặt với quan điểm đảng ta ích kỷ, hèn nhát, tham quyền cố vị và  “dân chủ”, “nhân quyền” tư sản để đồng nhất dân chủ với đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; nhà nước pháp quyền với thiết chế tam quyền phân lập ….
Sự thực Đảng có còn vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội hay không , có hèn nhát, ích kỷ và tham quyền cố vị hay không chỉ có người dân Việt Nam mới có quyền trả lời điều đó. Chính nhân dân ta-chứ không phải ai khác mới là người đánh giá chính xác nhất vai trò, uy tín của Đảng, là người có tiếng nói quyết định trong việc lựa chọn sự lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Còn những người vụ lợi chính trị, tuyên truyền bịa đặt... thì đều không đủ tư cách để có tiếng nói trong vấn đề này.
Tóm lại, những vấn đề được nêu ra trong bài viêt của Nguyễn Thạch đã bộc lộ bản chất phản động, thiếu khách quan, không có cơ sở, cố tình bóp méo sự thật, với mục đích chống phá đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta và cuối cùng là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chúng ta cần nghiêm khắc lên án và cảnh giác với những âm mưu thâm độc này của những bồi bút, phản động./.







Tỉnh táo với luận điệu xuyên tạc chống phá Đảng


   Trên blog Dân làm báo, đối tượng Nguyễn Ngọc Chu tán phát bài “ năm khuyết tật không thể khắc phục của quy hoạch cán bộ”, nội dung xuyên tạc việc quy hoạch nhân sự cán bộ Đại hội lần thứ XIII của Đảng, chia rẽ, nói xấu Đảng.
Thực tiễn lịch sử hơn tám mươi năm ra đời và lãnh đạo đất nước, trải qua các thời kỳ lịch sử cách mạng, vai trò của Đảng ngày càng được khẳng định. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, vì Đảng Cộng sản không có mục đích tự thân, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng không có lợi ích nào khác.
Trải qua thực tiễn, Đảng ta từng bước trưởng thành, tích lũy được nhiều kinh nghiệm và đúc rút được những bài học quý giá trong lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ đất nước. Thời kỳ nào cũng vậy, Đảng ta xác định, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa sống còn với Đảng và chế độ và là công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành thường xuyên, liên tục. Suốt quá trình đó, Đảng đã ra nhiều nghị quyết về công tác xây dựng Đảng, từng bước hoàn thiện bản thân mình. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. 
Nếu Đảng ta không bản lĩnh vững vàng thì khó có thể trụ vững, nhất là khi cuộc chính biến ở Liên Xô và Đông Âu làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa tan vỡ, hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ xảy ra gần ba thập kỷ trước và một trong những nguyên nhân của sự sụp đổ đó chính là những người cộng sản đã từ bỏ mục tiêu lý tưởng của giải cấp công nhân, sai lầm về nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng làm cho Đảng mất sức chiến đấu, mất vai trò lãnh đạo, không vì dân.
Trước những luận điệu xuyên tạc của một số phần tử phản động lợi dụng việc chuẩn bị cho Đại hội XIII của Đảng, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân phải hết sức tỉnh táo, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và đoàn kết thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống; đó chính là mục tiêu mà Đảng ta xác định ngay từ khi ra đời







“NHÀ DÂN CHỦ” ĐỖ THỊ MINH HẠNH LÀ AI ?


         Thời gian qua, Tổ chức Ân xá Quốc tế - Amnesty International đã yêu cầu chính quyền Việt Nam “phải hành động lập tức để đảm bảo sự an toàn cho bà Đỗ Thị Minh Hạnh, nhà hoạt động vì quyền của người lao động, sau khi côn đồ dùng đá tấn công nhà bà 3 lần trong tuần rồi.” Trong đó, Ông Minar Pimple, Giám đốc cấp cao của Ân Xá Quốc Tế cho rằng: “Thật không thể nào chấp nhận được khi công an thoái thác trách nhiệm, cho phép các cuộc tấn công diễn ra mà hoàn toàn án binh bất động. Những người bảo vệ nhân quyền như Đỗ Thị Minh Hạnh phải được quyền tiến hành các hoạt động của mình một cách hòa bình và không bị đe dọa bởi bạo lực.” Đây quả thật là điều quá lố bịch, khôi hài. Bởi lẽ, xin thưa với ông Ông Minar Pimple rằng chỉ trước đó vài tháng thôi, chính bà Đỗ Thị Minh Hạnh đã có hành vi kích động người dân gây rối an ninh trật tự, thậm chí công khai chống đối lại lực lượng công an nhân dân. Vậy mà giờ đây, Đỗ Thị Minh Hạnh lại dám mở miệng cầu xin các tổ chức nước ngoài nhờ công an Việt Nam cứu giúp. Chuyện này tưởng chừng khó tin nhưng lại là sự thật.
    Từ lâu, Đỗ Thị Minh Hạnh đã được đám dân chủ trong nước mệnh danh là một kẻ lừa lọc, tráo trở. Theo đó, Đỗ Thị Minh Hạnh và một số cá nhân khác trong nước thường núp dưới danh xưng thành viên tổ chức Lao động Việt, giúp đỡ công nhân rồi nhận tiền tài trợ từ nước ngoài. Tuy nhiên, Đỗ Thị Minh Hạnh cũng khá lưu manh, khốn nạn khi lợi dụng vai trò của mình trong tổ chức để hợp thức hóa số tiền này nhằm trục lợi cho cá nhân thị. Vì vậy mà tổ chức Lao động việt ở hải ngoại đã quyết định kiện toàn, thay máu lại tổ chức, thanh loại những phần tử cơ hội như Đỗ Thị Minh Hạnh. Điều đó đã cho thấy bản chất các nhà hoạt động “dân chủ” trong nước hiện nay hoạt động chính trị vì mục tiêu, lý tưởng thì ít mà chủ yếu vì tiền, vì trục lợi cá nhân thì nhiều. Đỗ Thị Minh Hạnh thực chất là một kẻ ham tiền trong những số đó.
     Bên cạnh đó, Đỗ Thị Minh Hạnh còn là tác giả, đạo diễn của nhiều vụ việc kích động quần chúng nhân dân gây rối an ninh trật tự; lợi dụng danh nghĩa tổ chức xã hội dân sự, tổ chức liên minh công đoàn hay nhà hoạt động vì quyền lợi của người lao động,… để kích động biểu tình nhằm chống phá chế độ. Trong đó, vào cuối năm 2015, Hạnh đã kích động khoảng 2000 công nhân Công ty TNHH Yupoong Việt Nam gây rối biểu tình. Nguyên nhân xuất phát từ việc Công ty TNHH Yupoong Việt Nam đột ngột đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với khoảng 2000 công nhân đã có giải thích rõ lý do cắt giảm và hướng dẫn cho người lao động tiến hành các thủ tục để hưởng quyền lợi: “Trong trường hợp công ty xảy ra hỏa hoạn, dẫn đến tạm ngừng hoạt động xưởng 1 và chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động, công ty có thể tiến hành vận động, khuyến khích người lao động tự nguyện nộp đơn xin nghỉ việc theo hình thức thỏa thuận chấm dứt hợp đồng với các chế độ hỗ trợ phù hợp; hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 38 – Bộ luật Lao động với lý do hỏa hoạn, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ việc làm.”.
     Bên cạnh đó, Đỗ Thị Minh Hạnh đã rất lưu manh khi lợi dụng vấn đề này để lôi kéo, kích động công nhân tiến hành biểu tình, gây rối với chiêu bài núp bóng “nhà hoạt động vì công nhân”. Thử nghĩ xem, một kẻ chưa được xóa án tích như Hạnh liệu có đủ tư cách để bảo vệ cho công nhân? Mặt khác, Hạnh đã từng bị xử lý về hành vi này tại sao lại tiếp tục dấn thân vào con đường tội lỗi không chỉ đẩy công nhân đến chỗ bế tắc, tan cửa nát nhà, thất nghiệp mà còn làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty bị ảnh hưởng do vụ cháy lại càng bị ảnh hưởng do hành vi chống đối, quá khích của công nhân khác. Hành vi của Đỗ Thị Minh Hạnh kích động công nhân ở đây là hết sức nguy hiểm, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự. Một kẻ đã từng chống phá công an điên cuồng, khốn nạn như vậy mà giờ đây lại dám mở miệng cầu xin công an giúp đỡ liệu chúng ta có thể chấp nhận được không? Đúng là chuyện này chỉ có ở đám “dân chủ” cuội mà thôi.
tổng hợp từ Internet)

HIỂU ĐÚNG VỀ CÂU NÓI CỦA K.MARX “TÔN GIÁO LÀ THUỐC PHIỆN CỦA NHÂN DÂN”


      Gần đây, một số chức sắc tôn giáo ở Việt Nam, đặc biệt là Công giáo (Kito) đã lợi dụng thần quyền để công kích, bôi nhọ chế độ và lãnh tụ, xuyên tạc lịch sử dân tộc, xúi giục giáo dân làm loạn, gây ảnh hưởng rất xấu tới ANTT và ảnh hưởng chính tới bộ mặt của tôn giáo. Với chính sách tự do tôn giáo cởi mở, chính quyền Việt Nam đã hết sức nhẫn nhịn, dù dư luận nhân dân rất phẫn nộ đòi hỏi phải thực thi các biện pháp cứng rắn theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, khi một số vị chức sắc trong số đó bị chính Giáo hội và cha bề trên xử lý (điển hình là việc linh mục Nguyễn Duy Tân bị bề trên trục xuất), những kẻ cực đoan trong tôn giáo lại lớn tiếng đổ lỗi, vu cáo cho chính quyền Việt Nam là “can thiệp, mất dân chủ, đàn áp tôn giáo” một cách vô căn cứ.
      Trong bối cảnh đó, những thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực tư tưởng lập tức hướng mũi nhọn công kích, xuyên tạc chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách của Đảng - Nhà nước Việt Nam về công tác tôn giáo. Mặt khác, một số người do phẫn nộ lại chưa hiểu rõ mà dùng câu “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” khi nêu ý kiến về tôn giáo, điều này rất dễ bị kẻ thù lợi dụng để kích động là chúng ta phỉ báng, chống phá tôn giáo.

     Vậy thực chất nhận xét này của Marx có ý nghĩa như thế nào?

     Câu nói trên đã bị cắt khỏi bài viết và hoàn cảnh lịch sử của nó, thực tế câu “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” chỉ là một ý được trình bày ở trong lời nói đầu của tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hegels” (1844). Vì vậy có thể thấy nội dung tác phẩm này của Marx là phê phán triết học pháp quyền Hegels chứ không phải là phê phán tôn giáo. Đoạn văn như sau:
     “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Xóa bỏ tôn giáo, với tính cách là xóa bỏ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là yêu cầu thực hiện hạnh phúc thực sự của nhân dân. Yêu cầu từ bỏ những ảo tưởng về tình cảnh của mình cũng là yêu cầu từ bỏ cái tình cảnh đang cần có ảo tưởng. Do đó, việc phê phán tôn giáo là hình thức manh nha của sự phê phán cuộc sống khổ ải mà tôn giáo là vòng hào quang thần thánh của nó”.
      Ở câu này, Marx đã vận dụng phép biện chứng để phản ánh hiện thực xã hội cũng như phản ánh sự thoái hóa của Tôn giáo. Trong một xã hội TBCN đầy rẫy những áp bức bóc lột bất công, nhân dân lao động không thể tìm thấy một cuộc sống dù chỉ tạm đủ. Đối với họ, việc lo cho đủ ba bữa ăn trong một ngày là quan trọng hơn bất cứ việc nào khác. Cũng như vậy, người dân lao động hàng ngày phải lao động từ 12-14 tiếng trong công xưởng, thậm chí là 18-20 tiếng thì họ không thể có một đời sống tinh thần thực sự.
    Với sự bóc lột lao động đến mức cùng cực và kiệt quệ như vậy thì đời sống tinh thần của người dân cũng ngày càng nghèo nàn hơn. Karl Marx đã từng mô tả, cuộc sống của giai cấp vô sản dường như chỉ quay xung quanh việc lao động, ăn, ngủ và duy trì nòi giống. Ngoài 4 việc đó ra thì giai cấp vô sản dường như chẳng còn một tý chút thời gian dư dả nào cả, vậy nên chính vì thế đời sống tôn giáo của họ cũng nghèo nàn như vậy. Con người ta chỉ chăm lo cho bữa ăn nhiều hơn là tuân theo những chuẩn mực đạo đức của tôn giáo, bởi lẽ trong nhận thức của họ thì bữa ăn là cái cần thiết tối thiểu còn không đủ thì làm sao có thể học theo những chuẩn mực đạo đức hay giáo lý tôn giáo.
     Vì vậy sự nghèo nàn của tôn giáo chỉ quay lại một niềm tin cảm tính duy nhất, đó là tin vào Đấng toàn năng năng những mong Đấng toàn năng sẽ phù hộ, thậm chí người dân còn chẳng thể nhận thức được Đấng toàn năng là ai, và dạy cho những gì, bởi nhân dân lao động chẳng thể quan tâm đến nó là gì, và nó có gì. Sự nghèo nàn ấy của tôn giáo cũng chính là sự nghèo nàn thực tế của xã hội, nhưng lại là sự phản kháng chống lại chính cái nghèo nàn ấy.
      Nhân dân lao động đã mất hết niềm tin, họ cảm thấy xã hội chỉ toàn những áp bức và bất công, nhưng họ không tìm được cách giải quyết cho sự khổ đau về mặt vật chất, vậy nên họ tìm đến tôn giáo như một liều thuốc giảm đau, giúp tạm thời quên đi những nỗi đau hàng ngày đang phải đối diện. Vậy nên Marx khẳng định, tôn giáo chính là “tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức”, là cách để họ tạm thời lấy lại được sự sống sau những giờ lao động mệt mỏi và căng thẳng. Cũng đồng thời đó là “trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của trật tự không có tinh thần” - ở đây, chính là Marx đề cao tôn giáo chứ không hề phỉ báng tôn giáo.
     Tại sao lại như vậy, bởi lẽ nếu không có tôn giáo thì thật sự nhân dân lao động sẽ không còn là con người, họ sẽ biến thành những con rô bốt không có trái tim. Trong xã hội đó, một xã hội mà đời sống tinh thần nghèo nàn nhất thì tôn giáo lại món ăn tinh thần duy nhất, bởi vậy mới là “tinh thần của trật tự không có tinh thần”. Có thể nói ở tôn giáo, con người lao động mới tìm thấy được phần người ít ỏi còn sót lại ở trong cuộc sống của họ, để họ hiểu rằng họ không phải là những cỗ máy vô cảm, mà họ là con người, họ có tình cảm, có lý trí và có cả sự nhận thức. Những điều mà một con rô bốt không thể tìm thấy trên băng chuyền sản xuất.
     Đến đây, Karl Marx mới đưa ra kết luận nổi tiếng: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Có thể thấy mâu thuẫn của vấn đề đã được đưa lên đến đỉnh điểm, dường như nhiều người chỉ nghe câu nói này sẽ nghĩ ngay đến Marx đang ám chỉ tôn giáo là một thứ tiêu cực, gây tổn hại đến nhân dân và cần phải xóa bỏ. Hoặc theo một hình tượng khác thì tôn giáo là tiêu cực của xã hội cũng giống như thuốc phiện vậy. Nhưng thực chất thì không phải như thế.
    Ai cũng biết rằng, tình cảnh giai cấp lao động thời của Karl Marx là vô cùng khốn khổ. Vậy nên khi ví tôn giáo là thứ gây nghiện thì thực chất Marx muốn ám chỉ rằng vào thời đó là lúc mà con người còn cảm thấy họ là chính con người và họ có thể tìm được bản thân mình ở những thú vui tình thần còn lại duy nhất này mà không phải là máy móc hay con vật. Mặt khác, trong điều kiện nghèo nàn vật chất thì thời của Marx người công nhân và nhân dân lao động còn không có được những điều kiện chăm sóc y tế tối thiểu. Chính vì vậy nên họ tìm đến “laudanum” là một loại cồn thuốc phiện. Cồn thuốc phiện ở thế kỷ 19 được dùng như một thứ “thuốc chữa bách bệnh”, từ bệnh tiêu chảy, ho, cảm cho đến bệnh đau xương, đau khớp. Thực chất cồn thuốc phiện không hề chữa bệnh mà chỉ giúp cho xoa dịu đi những nỗi đau đớn vì bệnh tật của con người.
    Từ quan sát thực tế, Marx khẳng định loại cồn thuốc phiện đó là có tác dụng, nhưng nó không phải là thuốc, vì vậy nó không giải quyết được bệnh trạng của con người và con người vẫn phải chịu bệnh trạng như vậy, cuối cùng vẫn chết, có chăng chỉ là sự đau đớn giảm đi mà thôi. Cũng như vậy, tôn giáo là liều thuốc giảm đau hữu hiệu đối với những đau khổ của giai cấp vô sản thời bấy giờ, là món ăn tinh thần an ủi nhân dân lao động. Nhưng nó không thể giải quyết được sự đau khổ mà chỉ giúp người ta giảm bớt nỗi đau khổ với một niềm tin cảm tính còn lại duy nhất vào các đấng toàn năng sẽ cứu vớt linh hồn họ (tôn giáo lúc đó cũng nghèo nàn như chính tác dụng chữa bệnh của cồn thuốc phiện vậy). 
   Vậy nên và như vậy con người vẫn phải đối mặt với những đau khổ đó và muốn giải quyết nỗi đau đó thì không gì hơn là phải tìm lại chính mình, tìm lại được bản thân con người, đưa một hiện thực ảo tưởng thành một hiện thực thực sự dù nó không có thực thể. Cũng giống như một người bệnh không thể dùng mãi cồn thuốc phiện mà phải đứng lên để tự đi khám để biết được bệnh của mình và tìm ra loại thuốc có thể chữa bệnh cho chính mình. Không ai có thể làm thay họ việc đó, kể cả bác sĩ, bởi nếu bệnh nhân không chịu khám thì bác sĩ mãi mãi chẳng thể cho họ biết họ mắc bệnh gì và cần dùng thuốc gì.
    Như vậy, rõ ràng là Marx không hề phê phán tôn giáo là thứ hại nhân dân, trái lại ông đang mô tả thực sự đó là liều thuốc tinh thần còn lại duy nhất để giúp người dân tìm lại được chính họ còn là con người trong một xã hội vốn không có tình người, là liều thuốc giảm đau duy nhất đối với những đau khổ mà nhân dân lao động đang phải gánh chịu trong xã hội tư bản.
    Sự phê phán ở đây của Marx là mong “loài người vứt bỏ những xiềng xích là các bông hoa giả trang điểm cho chúng, để loài người không phải tiếp tục mang những xiềng xích ấy, mà tìm đến để hái lấy bông hoa thật, tự thoát khỏi ảo tưởng, để con người suy nghĩ, hành động, xây dựng tính hiện thực của mình, để con người xoay quanh bản thân mình và cái mặt trời thật sự của mình. Còn tôn giáo chỉ là mặt trời ảo tưởng khi mà con người chưa tìm ra được chính bản thân mình”.
    Karl Marx đã chỉ ra việc phê phán tôn giáo không phải là xóa bỏ tôn giáo. Bởi cái xiềng xích lớn nhất trói buộc con người chính là chủ nghĩa tư bản và hiện thức bóc lột nặng nề, cái bông hoa giả chính là những nhận thức tôn giáo ngay tại nước Đức thời bấy giờ. Nhận thức tôn giáo mang tính lầm lạc và cứu rỗi con người về mặt tinh thần nhưng không thể nào cứu rỗi chính bản thân con người đó. Đó chính là hiện thực của các nước Châu Âu thế kỷ 19 khi mà tôn giáo chỉ còn là cái vỏ bọc để bảo vệ cho chế độ bóc lột của CNTB, tôn giáo mất đi cái bản chất giáo dục nhân cách của con người và chỉ còn là những hiện tượng tinh thần mang tính ảo tưởng. Nhiệm vụ của việc phê phán tôn giáo là bản thân con người phải vứt bỏ những lầm lạc ảo tưởng mà các tôn giáo sử dụng để con người quên đi những nỗi đau khổ thực tại mà họ đang phải đối mặt. 
     Đồng thời Marx cũng nhấn mạnh rằng con người phải bỏ đi những bông hoa giả và lấy những bông hoa thực, những bông hoa đẹp đẽ là hình ảnh ẩn dụ của tôn giáo, vậy việc phê phán tôn giáo chính là bỏ đi tôn giáo ảo tưởng để đi đến tôn giáo thực tại. Các tôn giáo thường nói về thiên đường, đó là chỉ cần con người nghe lời chúa thì họ sẽ được lên thiên đường và đó là điều mà nhà thờ đã và đang dạy họ. Nhưng để làm cụ thể như thế nào mới được lên thiên đường thì nhà thờ lại không chỉ ra cho họ. Chính vì vậy thiên đường mãi mãi là ảo tưởng và bản thân người dân lao động vẫn hàng ngày sống cảnh nghèo nàn, thất học, đói kém. Họ không dám và không thể tự xây dựng ước mơ cho chính mình. Và nhiệm vụ lấy được bông hoa thật là phải đưa tôn giáo trở về tôn chỉ thực sự với ý nghĩa là giáo dục nhân cách đạo đức cho con người.
    Vậy làm cách nào để có thể có được sự cứu rỗi thật sự? Điều mà Marx chỉ ra, liều thuốc thực sự cho xã hội chính là sự tự ý thức của con người. Con người sẽ dần phải xóa bỏ những niềm tin cảm tính của mình để xây dựng một con người hiện thực, con người với niềm tin lý tính. Đây chính là điểm quan trọng nhất mà Marx muốn nói đến, nhưng nó đã bị rất nhiều người vô tình hoặc cố ý hiểu sai.
    Sự khác biệt giữa niềm tin cảm tính và niềm tin lý tính đó là cảm xúc trong niềm tin, một niềm tin lý tính là niềm tin vào lý luận và thực tiễn mà không bị tác động của cảm xúc yêu hay ghét, đó là niềm tìn vào lẽ phải theo đúng hiện thực của nó, theo những quy luật vận động của tự nhiên và xã hội chứ không phải một niềm tin cảm tính tức một niềm tin mù quáng không có cơ sở.
    Tuy nhiên, niềm tin cảm tính thực tế lại là căn bệnh cố hữu của đa phần mọi người trong xã hội. Họ không cần phải có thực tiễn và lý luận, họ tin theo chỉ vì họ có cảm tình với nó. Và điểm khác biệt mấu chốt là niềm tin cảm tính thì thay đổi theo thời gian vì nó phụ thuộc vào trạng thái cảm xúc của con người rất thất thường. Còn niềm tin lý tính không có sự thay đổi bởi nó gắn chặt vào những quy luật vận động của tự nhiên và xã hội. Niềm tin lý tính gọi một cách đơn giản là niềm tin thuận theo quy luật tự nhiên và để nhận thức được các quy luật tự nhiên thì lại đỏi hỏi con người phải có một tư duy lí tính, để loại bỏ tất cả những yếu tố gây nhiễu trong tư duy của họ, tức con người phải là con người lý tính.
     Điểm biện chứng hay nhất của Marx ở đây nằm ở chỗ thay thế niềm tin cảm tính bằng niềm tin lý tính. Nói một cách đơn giản: hãy làm theo điều Chúa dạy để sống và nhận thức như Chúa, thay vì tin vào những điều ảo tưởng mà nhà thờ thời bấy giờ vẽ ra như một công cụ chính trị để hạn chế nhận thức của nhân dân lao động, biến họ trở nên mù quáng và không có lý tính. Đây là điểm mà nhiều chức sắc tôn giáo thiếu đạo đức lợi dụng nhà thờ để dẫn dụ, đã và đang tẩy não con người. Tư tưởng của họ rao giảng không còn là tư tưởng của Chúa nữa, mà là tư tưởng của chính giới tăng lữ muốn ăn trên ngồi trốc thống trị xã hội.
    Những sự tha hóa trong nhà thờ đã và đang phá hủy tôn giáo thực sự mà biến nó trở thành những hình ảnh tôn giáo mà thôi. Giáo dân luôn tin tưởng vào Chúa nhưng họ không biết phải làm thế nào để có được hạnh phúc mà Chúa đã dậy, còn nhà thờ và giới tăng lữ luôn cố gắng nhồi nhét vào đầu của giáo dân những tư tưởng họ bảo là của Chúa, nhưng thực chất họ lại không hề tin vào Chúa.
(tổng hợp từ Internet) 


Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2019

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LUÔN XỨNG ĐÁNG LÀ LỰC LƯỢNG ĐI ĐẦU TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”, TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG VĂN HÓA


Được biết đến như một bộ phận của chiến lược toàn cầu phản cách mạng, “diễn biến hòa bình” là cách mà chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế tiến hành bằng các biện pháp “phi quân sự” với chủ thuyết “chiến thắng không cần chiến tranh”, nhằm vào các nước xã hội chủ nghĩa, mục đích làm thay đổi chế độ chính trị, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (tháng 1/1994) đã chỉ ra bốn nguy cơ đe dọa cách mạng Việt Nam, trong đó có nguy cơ “diễn biến hòa bình”. Các kỳ đại hội tiếp theo, nguy cơ này tiếp tục được Đảng ta đề cập. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng một lần nữa khẳng định bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, đất nước ta cũng đang phải đối mặt với không ít nguy cơ, thách thức. Một trong số đó là việc các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn, tìm cách gây chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước, với lực lượng vũ trang. Mặt khác, chúng gây sức ép với ta trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…; chúng tập trung “mũi đột phá” vào lĩnh vực tư tưởng, lý luận, tác động đến các tầng lớp xã hội nhằm làm thấm dần hệ tư tưởng tư bản, lối sống thực dụng phương Tây, phủ nhận học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, thông qua đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cho một bộ phận xa rời lý tưởng cách mạng, mục tiêu độc lập dân tộc và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Mục tiêu mà các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” ở nước ta là hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, hơn bao giờ hết, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là giải pháp quan trọng để giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng - an ninh của đất nước. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
Là lực lượng vũ trang nhân dân, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân đội nhân dân có vai trò đặc biệt quan trọng trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thể lực thù địch trong và ngoài nước. Để phát huy vai trò đó, lực lượng QĐND cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt một số nội dung trọng tâm sau:
1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc, cụ thể hóa các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vào thực tiễn công tác, chiến đấu; phối hợp chặt chẽ với công an và các bộ, ngành liên quan chủ động nghiên cứu, nắm chắc tình hình, dự báo những tình huống phức tạp có thể xảy ra để kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành, chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chế độ XHCN trong mọi hoàn cảnh, không để bị động bất ngờ. Trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, lực lượng QĐND phải thấm nhuần sâu sắc lời chỉ dạy của Bác Hồ: “Đối với địch phải cương quyết, khôn khéo”.
2. Tích cực xây dựng nội bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và đạo đức; tích cực, chủ động phòng, chống các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vấn đề biên giới, chủ quyền lãnh thổ phức tạp nảy sinh góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
3. Nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ; tuyên truyền, giúp quần chúng nhân dân nhận rõ bản chất của “diễn biến hòa bình” và đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go, phức tạp, quyết liệt và lâu dài, đòi hỏi mỗi người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị, có sức đề kháng tốt, “tự miễn nhiễm” trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Tăng cường cán bộ, chiến sĩ xuống địa bàn cơ sở để gần dân và gắn bó mật thiết với nhân dân hơn nữa, qua đó xây dựng thế trận lòng dân vững mạnh, gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
4. Phát huy vai trò chủ động, tích cực của báo chí cách mạng, trong đó có lực lượng 47 trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân; vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam, định hướng dư luận, chống “diễn biến hòa bình” và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tăng cường đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
5. Tập trung xây dựng lực lượng QĐND trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; gương mẫu đi đầu trong thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết thống nhất; đề cao tinh thần cảnh giác, chủ động, nhạy bén, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mưu đồ “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang.
Hướng tới kỷ niệm 75 năm thành lập QĐND (22/12/1944 - 22/12/2019), phát huy truyền thống anh hùng, vẻ vang của lực lượng QĐND, mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội nguyện trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước, với Tổ quốc và nhân dân; luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, đoàn kết chặt chẽ, thường xuyên rèn luyện, học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, tận tụy với công việc, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân, với truyền thống và danh dự của lực lượng QĐND Việt Nam Anh hùng. Đó cũng là quyết tâm "luôn luôn giữ mình trong sạch, vững vàng, không bị sa ngã trước sự mua chuộc, quyến rũ của các phần tử xấu,"lợi ích nhóm"", đồng thời "không để kẻ địch mua chuộc, lôi kéo, tấn công vào nội bộ Quân đội"./.
                                                             

MỌI SỰ XUYÊN TẠC VỀ CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945 ĐỀU TRỞ NÊN VÔ NGHĨA TRƯỚC THỰC TẾ LỊCH SỬ VẺ VANG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM ANH HÙNG


Cách đây 74 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành thành công cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, tạo bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của dân tộc. Thế mà, hiện nay vẫn còn có những kẻ cơ hội chính trị tung ra luận điệu xuyên tạc, phủ nhận sự thật hiển nhiên đó. Điều bịa đặt ấy thật trơ trẽn, lố bịch và không thể chấp nhận!
Hơn ai hết, nhân dân ta là người hiểu rõ, thấu đáo giá trị và ý nghĩa thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Thắng lợi đó là kết quả của quá trình đấu tranh, hi sinh xương máu của toàn thể dân tộc Việt Nam suốt 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng kể từ ngày thành lập. Và đó còn là kết quả hơn 30 năm tìm đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Để cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi, Đảng, Bác Hồ và toàn dân ta đã phải chuẩn bị toàn diện thực lực cách mạng từ nhiều năm trước. Vào đầu năm 1941, trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình trong nước và thế giới, Bác Hồ về nước và Người đã cùng Trung ương Đảng kịp thời nắm bắt tình hình, đề ra chiến lược, sách lược, xây dựng căn cứ địa, chuẩn bị lực lượng, đào tạo, huấn luyện cán bộ, tổ chức, động viên, lãnh đạo toàn dân chớp thời cơ chín muồi đứng lên lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân.
Thực tế cho thấy, để có lực lượng cách mạng, từ cuối năm 1941 đến năm 1942, Đảng ta đã tổ chức ra các hội: Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Quân nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Tự vệ cứu quốc, v.v. Ở căn cứ địa Việt Bắc, Đội Cứu quốc quân và Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân lần lượt ra đời. Các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh và các lực lượng vũ trang là chủ lực quân của cách mạng. Năm 1943, trước diễn biến mới của tình hình, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp quyết định mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị đề ra chủ trương liên minh với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu nước trong và ngoài nước chưa gia nhập Mặt trận Việt Minh, đẩy mạnh công tác vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ, tư sản, địa chủ yêu nước, các dân tộc thiểu số, Hoa kiều, lập ra Hội văn hóa cứu quốc ở các thành phố,… nhằm đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng.
Ngày 09/3/1945, phát-xít Nhật đảo chính lật đổ chính quyền Pháp ở Việt Nam. Ngay tối hôm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp và ngày 12/3/1945 ra Chỉ thị lịch sử: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Hội nghị quyết định phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước trong toàn quốc làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa và quyết định thay đổi khẩu hiệu “Đánh đuổi phát-xít Nhật ‒ Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát-xít Nhật”. Trước không khí sục sôi cách mạng của quần chúng, khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn đói” mà Đảng đưa ra đã đáp ứng nguyện vọng khẩn thiết của đại đa số nhân dân.
Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, nhận định thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đã tới; Ủy ban khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1. Ngày 16/8/1945, “Quốc dân Đại hội Tân Trào” thông qua “10 Chính sách lớn của Việt Minh”; quyết định quốc kỳ, quốc ca và bầu Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ 14-8 và đã giành thắng lợi trên cả nước, với ngày 19-8 ở Hà Nội, ngày 23-8 ở Huế, ngày 25-8 ở Sài Gòn, v.v. Như vậy, chỉ trong 15 ngày, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm nên cuộc cách mạng “long trời, lở đất”, đón niềm “Vui bất tuyệt” mà nhà thơ Tố Hữu đã diễn tả bằng những vần thơ giầu cảm xúc: “Ngực lép bốn ngàn năm/ Trưa nay cơn gió mạnh/ Thổi phồng lên/ Tim bỗng hóa mặt trời”.
Đó là sự thật - sự thật lịch sử! chứ không phải như ai đó cố tình xuyên tạc, với tâm địa đen tối, rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hứng được quả ngọt trời cho là tình thế của Pháp, Nhật và hào khí của dân tộc lúc đó để cướp chính quyền cho riêng mình”. Hơn thế, họ còn ngụy biện: “nếu không có Cách mạng Tháng Tám, nước ta đã giầu mạnh từ lâu, chứ không phải nghèo hèn, mất dân chủ như bây giờ ”. Thật trơ trẽn, một sự trơ trẽn trắng trợn! Trong khi mọi người đều biết hoàn toàn không phải vậy và không phải biết có lý do nào khác mà là chính Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối đúng đắn, phương pháp cách mạng sáng tạo đã nắm chắc, tận dụng thời cơ, biết tổ chức và tập hợp lực lượng, động viên được toàn dân tộc làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Đó còn là vai trò tiền phong, gương mẫu, bất chấp mọi hy sinh, gian khổ, quyết chiến đấu vì quyền lợi của Tổ quốc và nhân dân của 5.000 đảng viên cộng sản. Họ là những Chiến sĩ cách mạng kiên trung, bất khuất, một lòng, một dạ vì nước vì dân, sáng ngời dũng khí chiến đấu, xung kích tiên phong, vào sống ra chết không sờn lòng, đầu rơi máu chảy không lùi bước, tra tấn tù đày không khuất phục, kiên quyết lãnh đạo cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân để xây dựng đất nước độc lập, dân tộc tự do, nhân dân ấm no, hạnh phúc, dân chủ, nhân quyền,...
Trong Tuyên ngôn độc lập đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Đặc biệt, ngay mở đầu bản Tuyên ngôn, Người nhấn mạnh tư tưởng về nhân quyền được ghi trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789, coi đó là “những tư tưởng bất hủ”, những “lẽ phải không ai chối cãi được”. Tuy nhiên, Người cũng chỉ rõ: chỉ có dân tộc độc lập thì con người mới có thể có tự do, hạnh phúc và không thể có được quyền con người, quyền công dân khi quyền độc lập của dân tộc bị chà đạp. Con người ở đây theo nghĩa tất thảy mọi người, trước hết là những người lao động bị áp bức, bóc lột chiếm đại bộ phận trong nhân dân Việt Nam. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, những nội dung ấy luôn gắn chặt với quyền dân tộc, quyền con người, quyền công dân. Đó cũng là tư tưởng bất hủ mà Hồ Chí Minh đã đặt ra với tất cả chúng ta cách đây 74 năm - khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời. Và chính đó cũng là điều mà suốt 74 năm qua, biết bao thế hệ người Việt Nam hy sinh, phấn đấu để xây dựng một xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”, chứ không phải một xã hội “mất dân chủ” như ai đó rắp tâm xuyên tạc...
Còn nhớ, khi đất nước mới giành được độc lập, nhưng đã phải đương đầu với bao nhiêu thử thách ngặt nghèo: ngân khố cạn kiệt, hai mươi vạn quân Tưởng kéo vào miền Bắc, thực dân Pháp núp sau lưng quân đội Anh kéo vào miền Nam hòng lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, vận động nhân dân thực hiện tốt ba nhiệm vụ cách mạng: chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Chính phủ đã kịp thời ban hành các chính sách nhằm bồi dưỡng sức dân, động viên toàn dân thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, học chữ quốc ngữ, củng cố và mở rộng khối đoàn kết dân tộc. Đảng ta còn lãnh đạo thắng lợi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày 06/01/1946; vô hiệu hóa mọi âm mưu phản cách mạng, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh với kẻ thù và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Việc ta ký với Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946 là một chủ trương sáng suốt: thứ nhất, tạm hòa hoãn với Pháp để phá tan âm mưu của bọn Tưởng và tay sai hòng đẩy ta vào thế cô lập; thứ hai, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới bảo vệ chính quyền cách mạng. 
Nhằm xây dựng một chế độ mới, khác hẳn về chất so với chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, phát-xít và tay sai, phong kiến trước đây, ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam tập trung lãnh đạo xây dựng một thể chế chính trị kiểu mới; trong đó, mọi quyền lực và lợi ích đều thuộc về nhân dân. Người dân Việt Nam, không phân biệt: gái trai, trẻ già, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo, đều là chủ nhân của đất nước. Dân tộc - Quốc dân là một khối thống nhất, không thể phân chia. Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp, tuân theo và bình đẳng trước pháp luật; được tự do ngôn luận, hội họp, tín ngưỡng, cư trú và đi lại...
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, gắn chặt lợi ích đất nước với quyền lợi và nghĩa vụ công dân, tạo nguồn lực để Đảng và Nhà nước phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân khôi phục và xây dựng nền kinh tế mới. Đảng ta đã phát động toàn dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tổ chức cứu trợ người nghèo, khắc phục nạn đói. Đồng thời, tiến hành công cuộc cải cách, tịch thu ruộng đất của bọn Việt gian, đế quốc, chia cho người nghèo; khôi phục sản xuất nông nghiệp và các cơ sở sản xuất công nghiệp, như: khai thác khoáng sản, chế biến nông, lâm và thủy sản; phục hồi giao thương hàng hóa. Trong lĩnh vực tài chính, Nhà nước phát hành tiền giấy, đẩy mạnh lưu thông, thúc đẩy kinh tế hồi phục. Nền kinh tế mới được xây dựng bằng chính sự nỗ lực và công sức của toàn dân, nhằm phục vụ đời sống nhân dân, làm giàu cho quốc gia và dân tộc.
Trên lĩnh vực văn hóa và giáo dục, cùng với xóa bỏ tàn dư văn hóa và chính sách ngu dân để trị của chế độ cũ, Đảng ta kêu gọi toàn dân đoàn kết, xóa bỏ hận thù, chung sức, chung lòng kiến thiết quốc gia; thành lập Nha Bình dân học vụ, mở các lớp bổ túc văn hóa để xóa nạn mù chữ, khôi phục và mở rộng hệ thống giáo dục phổ thông, cao đẳng và đại học. Đồng thời, ban hành Sắc lệnh, định rõ nguyên tắc của nền giáo dục mới: đại chúng hóa theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia và dân tộc, nhằm nâng cao nhận thức cho người dân, bồi dưỡng hiền tài cho đất nước. Phương hướng xây dựng nền văn hóa mới là bảo đảm hạnh phúc của nhân dân; phát huy giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu chọn lọc văn hóa nước ngoài, tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho vừa sửa được thói hư tật xấu, tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, vừa xây dựng nếp sống mới, làm cho ai ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập.
Với lĩnh vực quốc phòng và an ninh, Đảng ta chủ trương nhanh chóng phát triển lực lượng vũ trang, nhất là Quân đội và Công an. Lập quỹ quốc phòng, thành lập đội quân Quốc gia Việt Nam và Việt Nam công an vụ; khẳng định, Quân đội và Công an từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Lực lượng vũ trang được tổ chức và biên chế thống nhất; cơ quan Bộ Quốc phòng, Nha Công an được kiện toàn. Quân đội và Công an được xây dựng và huấn luyện toàn diện cả quân sự, chính trị, hậu cần và các ngành chuyên môn nghiệp vụ khác. Nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng là phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Tháng 01/1946, Trung ương Quân ủy được thành lập, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là Bí thư Quân ủy, v.v. Đó là những nhân tố quan trọng bảo đảm cho Quân đội ta là quân đội nhân dân, luôn giữ vững bản chất cách mạng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh để bảo vệ Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Đây chính là điểm khác biệt về chất đối với quân đội cũ, một đội quân xâm lược, dùng để trấn áp dân, đàn áp những người yêu nước và phong trào cách mạng, phục vụ lợi ích riêng của nhà nước đế quốc và phong kiến.
Nhờ đường lối đúng đắn và bằng những chủ trương, biện pháp phù hợp đó, chúng ta đã xây dựng được chính quyền của dân, do dân, vì dân vững mạnh, với cơ sở kinh tế - chính trị - xã hội phù hợp, bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành thắng lợi, Tổ quốc thống nhất, Đất nước trọn niềm vui Đại thắng mùa Xuân 1975. Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế đã giành được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,… Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và mở rộng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường, tiềm lực và sức mạnh tổng hợp của đất nước được nâng lên. Trên bình diện quốc tế, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 180 nước ở tất cả các châu lục; tham gia vào hầu hết các tổ chức, định chế quốc tế và khu vực và là một thành viên có trách nhiệm quốc tế của cộng đồng quốc tế, uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Tất cả những điều đó là minh chứng cho những giá trị mà Cách mạng Tháng Tám đưa lại; đồng thời, là bằng chứng hùng hồn nhất, thuyết phục nhất để bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận sự kiện lịch sử trọng đại, vẻ vang này./.
                                                           

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VẺ VANG CỦA BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 02/9/1945


Cách mạng tháng Tám thành công mở đầu trang sử mới của dân tộc Việt Nam. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời làm lễ ra mắt quốc dân tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội. Hàng chục vạn đồng bào Hà Nội và các tỉnh lân cận tập hợp trong trang nghiêm, xúc động, nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập. Thời gian thấm thoát đã 74 năm đã đi qua (02/9/1945 - 02/9/2019) nhưng bản anh hùng ca bất hủ ấy vẫn sống mãi trong hàng triệu trái tim những người con đất Việt. Những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn độc lập về sự thống nhất biện chứng giữa quyền dân tộc và quyền con người, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên quyết để giữ vững nền độc lập tự do vẫn có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập. Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Có thể thấy rằng, bản tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945 đã khẳng định rằng nền độc lập, tự do mà nhân dân Việt Nam giành lại được “là hoa, là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hi sinh của những người con anh dũng của dân tộc Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung trên những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam”. Những tuyên bố đanh thép trong bản Tuyên ngôn độc lập về quyền độc lập, tự do tất yếu của dân tộc Việt Nam đã “đánh đòn phủ đầu”, đập tan những luận điệu xuyên tạc trong âm mưu tái chiếm Đông Dương của thực dân Pháp và ý đồ can thiệp của các nước đế quốc đối với Việt Nam. Mọi hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền của Việt Nam đều vi phạm luật pháp quốc tế, đi ngược lại với xu hướng phát triển chung của nhân loại tiến bộ. Toàn thể dân tộc Việt Nam “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập, trước khi khẳng định một sự thật thiêng liêng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã trở thành một nước tự do và độc lập”, bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử của Bác Hồ đã lấy “những lẽ phải không ai chối cãi được” của hai bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (năm 1776) và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cuộc cách mạng Pháp (năm 1789) để khẳng định những quyền chân chính của dân tộc Việt Nam. 
Cùng với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, sự sáng lập Nhà nước dân chủ nhân dân ở Việt Nam là sự đổi đời vĩ đại không chỉ trong lịch sử Việt Nam mà cả lịch sử đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc. Đó là một nhà nước kiểu mới gắn bó mật thiết với nhân dân, mang tính nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Dân tộc Việt Nam đã được độc lập, thống nhất, có chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, có quân đội chính quy, có địa vị hợp pháp trên trường quốc tế. Trong quá trình phát triển của dân tộc, đó là bước nhảy vọt vĩ đại nhất, một đóng góp có ý nghĩa lịch sử cực kỳ to lớn.
Bản Tuyên ngôn độc lập đã chỉ ra một chính quyền cách mạng mới của nhân dân Việt Nam được xây dựng và trưởng thành theo đúng ý nguyện của mọi tầng lớp nhân dân và cả dân tộc Việt Nam. Tuyên ngôn độc lập khẳng định ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi và đồng thời là triết lý nhân sinh vĩnh hằng của dân tộc Việt Nam được Bác Hồ phát hiện “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Tuyên ngôn độc lập là sản phẩm của sự kết hợp các giá trị của truyền thống anh hùng, bất khuất và ý chí độc lập dân tộc của Việt Nam với sứ mệnh cao cả của giai cấp vô sản được đề cập trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (năm 1848). Nó thể hiện rõ nét cách mạng Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới và giai cấp vô sản Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của giai cấp vô sản thế giới có sứ mệnh lịch sử cao cả và vĩ đại là giải phóng dân tộc và nhân loại. Bản Tuyên ngôn độc lập là thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bản Tuyên ngôn còn cho thấy Bác Hồ có tầm nhìn xa về sự phát triển của lịch sử, có những dự báo thiên tài về tương lai của cách mạng cũng như quá trình hội nhập sâu rộng của cách mạng Việt Nam vào phong trào cách mạng thế giới. Tuyên ngôn độc lập cũng là áng văn chính luận giàu chất trí tuệ, chứa đựng những tư tưởng cao đẹp, giàu giá trị nhân bản. Không khô khan, lý trí mà giàu cảm hứng, không bi lụy, cảm thương, mà có giọng điệu hùng tráng quyết đoán, uyển chuyển, thuyết phục.
Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp soạn thảo và công bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới cho thấy trí tuệ sắc sảo và lỗi lạc của Bác Hồ. Đây là kết quả của một quá trình tư duy khoa học độc đáo và thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều đó càng khẳng định rõ ràng và nhất quán một chân lý hết sức giản dị nhưng có tầm khái quát cao là: Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng như trí tuệ sắc sảo của Người mãi mãi soi sáng đường chúng ta đi. 30 năm sau ngày Tuyên ngôn độc lập (1945-1975), Đảng và nhân dân đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang: giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi sự nghiệp cách mạng dân tộc - dân chủ, thống nhất Tổ quốc. Đất nước ta đã hoàn toàn được độc lập, nhân dân ta đã hoàn toàn được tự do, tinh thần bất diệt của Tuyên ngôn độc lập mãi mãi khắc sâu vào trái tim và khối óc của mỗi người Việt Nam.
Đã 74 năm đi qua, kể từ thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu hết sức to lớn. Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội; thắng lợi của sự nghiệp Đổi mới do Đảng đề ra và lãnh đạo đã đưa nước ta bước vào một thời kỳ phát triển mới và hội nhập kinh tế quốc tế./. 
                                        


NÂNG CAO CÔNG TÁC GIÁO DỤC, PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT CHO HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ Ở ĐƠN VỊ CƠ SỞ TRONG QUÂN ĐỘI


Đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam là nơi trực tiếp tổ chức các hoạt động giáo dục và quản lý, duy trì việc thực hiện pháp luật của cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là đội ngũ hạ sĩ quan, binh sĩ - lực lượng chiếm tỷ lệ rất cao ở đơn vị cơ sở. Trong những năm qua, giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở ở đơn vị cơ sở đã được các cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên và người chỉ huy các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, và đã có những chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của hạ sĩ quan, binh sĩ. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế bất cập như: một số cấp uỷ đảng chưa quan tâm đúng mức đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với công tác này chưa được xác định cụ thể, rõ ràng; hình thức, biện pháp giáo dục chưa linh hoạt, đa dạng nên kết quả giáo dục có mặt còn thấp, chưa tạo được sự chuyển biến vững chắc về nhận thức và hành vi chấp hành nghiêm pháp luật của hạ sĩ quan, binh sĩ.... mặt khác, các thế lực thù địch, phản động đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó chúng xác định Quân đội là trọng điểm. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến động cơ phấn đấu, rèn luyện và hành vi tích cực, tự giác trong học tập, rèn luyện tác phong sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở. Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở hiện nay cần thực hiện tốt một biện pháp cơ bản đó là:
Một là, thường xuyên giáo dục, nâng cao nhận thức cho các tổ chức, lực lượng trong giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ s. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được”(1). Vì vậy, giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở trong quân đội chỉ có thể có chất lượng cao khi các tổ chức, các lực lượng ở đơn vị cơ sở có nhận thức đúng, trách nhiệm cao trong giáo dục pháp luật. Thực tiễn giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở trong Quân đội cho thấy: Ở đâu, giai đoạn nào, các tổ chức, các lực lượng có nhận thức đúng, thì ở đó, khi đó giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ được tiến hành nghiêm túc và đạt được chất lượng, hiệu quả cao. Ngược lại, các tổ chức, các lực lượng nhận thức không đúng, không đầy đủ là nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém, khuyết điểm trong giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay. Đòi hỏi, nội dung giáo dục nâng cao nhận thức của các tổ chức, các lực lượng đối với giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở ở đơn vị cơ sở cần tập trung vào nâng cao nhận thức cho các tổ chức, các lực lượng về quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về giáo dục pháp luật; vị trí, vai trò, tầm quan trọng của giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở ở đơn vị cơ sở; thấy rõ tính cấp thiết của giáo dục pháp luật với việc hoàn thện và phát triển nhân cách quân nhân cách mạng, với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là, phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở trong quân đội. Đây là biện pháp quan trọng nhằm pháp huy sức mạnh tổng hợp trong quá trình giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở. Mỗi tổ chức, lực lượng có vị trí, chức năng, nhiệm vụ riêng song đều có trách nhiệm tham gia giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở. Giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ chỉ đạt chất lượng hiệu quả khi được tiến hành đồng bộ và đề cao được vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng trong tham gia hoạt động này.
Đối với cấp ủy, tổ chức đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng ở đơn vị cơ sở cần thường xuyên quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng các cấp trực tiếp là nghị quyết của cấp trên cơ sở về giáo dục pháp luật. Nắm vững các chỉ thị, hướng dẫn của cơ quan cấp trên và mục tiêu, yêu cầu, nội dung…giáo dục; quản lý chắc tình hình, thực trạng chấp hành pháp luật và công tác giáo dục pháp luật; căn cứ vào đặc điểm, tình hình nhiệm vụ của đơn vị để đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo công tác giáo dục đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn. Sau khi có nghị quyết lãnh đạo, các cấp ủy, tổ chức đảng phải quán triệt và triển khai thực hiện chặt chẽ; có sự phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng cho từng ủy viên, từng tổ chức đảng cấp dưới, bảo đảm cho lãnh đạo giáo dục pháp luật liên tục, toàn diện và thông suốt từ trên xuống dưới. Trên cơ sở lãnh đạo toàn diện, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần coi trọng lãnh đạo các khâu, các bước quan trọng trong giáo dục pháp luật như: xây dựng kế hoạch; bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên kiêm chức, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp; đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện cho giáo dục; kết hợp chặt chẽ giáo dục pháp luật với các hoạt động khác ở đơn vị…. Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, kịp thời biểu dương, khích lệ những gương người tốt, việc tốt; uốn nắn những tư tưởng, hành động lệch lạc trong giáo dục pháp luật. Triệt để khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo, hay chung chung, thiếu tính thiết thực; không phân công rõ trách nhiệm, thiếu kiểm tra, sâu sát trong lãnh đạo giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở.
Đối với người chỉ huy và chính ủy, chính trị viên các cấp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” (2). Người còn chỉ rõ: “Tư cách của người chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên tốt thì bộ đội ấy tốt. Người chính trị viên không làm tròn nhiệm vụ, thì bộ đội ấy không tốt” (3). Vì vậy, chất lượng giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ trong quân đội phụ thuộc rất lớn vào việc phát huy vai trò, trách nhiệm của người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các cấp trong thực hiện nhiệm vụ này. Người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các cấp phải xác định giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ là chức trách, nhiệm vụ của mình, nhận thức đầy đủ, đúng đắn ý nghĩa, tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ trong giai đoạn hiện nay. Thường xuyên nghiên cứu, nắm chắc các Nghị quyết, chỉ thị, quy định, hướng dẫn về giáo dục pháp luật của cấp trên, tình hình chấp hành pháp luật, kỷ luật của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị; đề xuất với cấp ủy những chủ trương, biện pháp lãnh đạo công tác giáo dục pháp luật. Căn cứ vào nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, người chỉ huy và chính ủy, chính trị viên phải trao đổi thống nhất kế hoạch giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ; phân công tổ chức thực hiện và chỉ đạo cấp dưới thực hiện đúng kế hoạch. Duy trì nghiêm các nề nếp, chế độ học tập, công tác và quản lý chặt chẽ mọi mặt hoạt động của đơn vị. Người chỉ huy và chính ủy, chính trị viên các cấp phải gương mẫu trong học tập, rèn luyện ý thức pháp luật, thực sự tiêu biểu trong chấp hành pháp luật, kỷ luật. Thường xuyên sâu sát nắm bắt tâm tư, tình cảm, nhu cầu, động cơ học tập, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của hạ sĩ quan, binh sĩ, kịp thời giải quyết những vướng mắc trong tư tưởng tình cảm của hạ sĩ quan, binh sĩ và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong giáo dục pháp luật. Kịp thời biểu dương thành tích, uốn nắn, ngăn chặn, xử lý những biểu hiện sai trái, lệch lạc trong chấp hành pháp luật, kỷ luật và giáo dục pháp luật, kỷ luật.
Đối với các cơ quan: Theo chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan, cần nhận thức đúng vị trí, vai trò trong giáo dục pháp luật; phải chủ động hiệp đồng, phối hợp chặt chẽ trong xây dựng và chỉ đạo các đơn vị thực hiện đúng kế hoạch giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Thường xuyên quản lý chặt chẽ và chỉ đạo, hướng dẫn việc quản lý, duy trì nghiêm pháp luật, kỷ luật ở các đơn vị. Kịp thời đề xuất với cấp ủy, người chỉ huy các biện pháp để nâng cao chất lượng quản lý, duy trì nghiêm pháp luật, kỷ luật ở đơn vị.
Đối với tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Căn cứ nghị quyết của cấp ủy, sự chỉ đạo của chính ủy, chính trị viên và hướng dẫn của cơ quan chính trị xây dựng kế hoạch giáo dục pháp luật cho đoàn viên, thanh niên. Kế hoạch giáo dục pháp luật cho đoàn viên, thanh niên phải thống nhất với kế hoạch giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ tại đơn vị với những nội dung, hình thức thiết thực, cụ thể phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm, thế mạnh của tổ chức đoàn. Bên cạnh việc thực hiện tốt học tập lý luận cho đoàn viên, thanh niên theo quy định, các tổ chức đoàn cần đẩy mạnh các hình thức thi tìm hiểu, diễn đàn thanh niên về pháp luật, kỷ luật. Thường xuyên phát động các phong trào thi đua xung kích trong học tập và chấp hành pháp luật, kỷ luật. Quan tâm lồng ghép giáo dục, tuyên truyền pháp luật trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao; các hoạt động giao lưu, kết nghĩa…Kết hợp chặt chẽ giáo dục, rèn luyện pháp luật cho đoàn viên, thanh niên với phong trào “xây dựng chi đoàn văn hóa mới”. Trong điều kiện hiện nay, mỗi tổ chức đoàn phải biết tranh thủ sự ủng hộ của lãnh đạo, chỉ huy, đồng thời phát huy tính sáng tạo, tận dụng những cơ sở, vật chất và điều kiện hiện có để xây dựng và vận dụng những hình thức mới trong giáo dục pháp luật, đưa giáo dục pháp luật trở thành hoạt động thường xuyên.
Đối với các cơ quan cấp trên. Cần thực hiện đúng phương châm “hướng về cơ sở”, tập trung mọi nguồn lực tạo sự chuyển biến từ cơ sở. Phải chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và năng lực sư phạm cho các lực lượng tham gia giáo dục pháp luật ở đơn vị cơ sở, bảo đảm đầy đủ, kịp thời tài liệu, cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục pháp luật theo quy định của Tổng cục Chính trị. Thường xuyên hướng dẫn, chỉ đạo các đơn vị thực hiện đúng kế hoạch, nội dung, hình thức giáo dục. Làm tốt công tác sơ, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời khắc phục những yếu kém bất cập, nhân rộng các điển hình tiên tiến, những cách làm hay, những kinh nghiệm quý trong giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở.
Ba là, Phát huy tính tích cực, chủ động của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở trong quá trình tự giáo dục pháp luật. Đây là nội dung biện pháp cơ bản quan trọng có ý nghĩa trực tiếp quyết định tới nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở. Giáo dục và tự giáo dục là hai quá trình có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó, giáo dục là cơ sở, nền tảng, chỉ đạo định hướng quá trình tự giáo dục. Tự giáo dục là khâu tiếp nối, là kết quả của quá trình giáo dục đã được chuyển hóa thành nhu cầu, động cơ học tập, rèn luyện của đối tượng giáo dục. Chỉ khi nào nâng cao được tính tích cực, chủ động của hạ sĩ quan, binh sĩ trong tự giáo dục mới khơi dậy được ở họ tinh thần cố gắng, nỗ lực học tập và rèn luyện thói quen chấp hành pháp luật nhằm cải tạo bản thân, hoàn thiện những phẩm chất nhân cách người quân nhân cách mạng, đồng thời loại trừ những nhận thức và hành vi không phù hợp với những chuẩn mực đạo đức và các quy định của pháp luật. Đòi hỏi các hoạt động ở đơn vị cơ sở phải hướng hạ sĩ quan, binh sĩ  vào học tập và rèn luyện một cách toàn diện về phẩm chất đạo đức, thói quen hành vi, tinh thần trách nhiệm, phương pháp, tác phong trong thực hiện nhiệm vụ…Chú trọng động viên, khuyến khích họ nghiên cứu, học tập và rèn luyện theo các quy định của pháp luật, điều lệnh, điều lệ của quân đội, các quy định của đơn vị. Trước hết là tập trung học tập, nghiên cứu những vấn đề liên quan tới  chức trách, nhiệm vụ quân nhân; những vấn đề, tình huống thường gặp trong cuộc sống. Cần làm cho vấn đề tự giáo dục, rèn luyện trở thành nhu cầu thực sự của hạ sĩ quan, binh sĩ. Kiên quyết chống những biểu hiện: cầm chừng, đối phó, lợi dụng việc đề cao tự giáo dục, rèn luyện mà xem nhẹ vai trò định hướng, tổ chức, kiểm tra của cán bộ, từ đó thiếu tích cực chủ động trong tự giáo dục, rèn luyện. Lãnh đạo, chỉ đạo tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự học tập, rèn luyện của hạ sĩ quan, binh sĩ. Bảo đảm đầy đủ sách, báo, tài liệu cho hạ sĩ quan, binh sĩ tự nghiên cứu, học tập; bố trí, sắp xếp thời gian công tác, sinh hoạt hợp lý để bộ đội có thời gian tự nghiên cứu, học tập pháp luật. Ngoài ra, cần tạo điều kiện cho hạ sĩ quan, binh sĩ trực tiếp tham gia vào các hoạt động thực tiễn để tự giáo dục, rèn luyện như: hoạt động kết nghĩa, hành quân dã ngoại, giao lưu văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, tuyên truyền viên trẻ.... Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, đánh giá rút kinh nghiệm việc tổ chức tự giáo dục của hạ sĩ quan, binh sĩ, định kỳ nhận xét, đánh giá xếp loại kết quả học tập, rèn luyện và mức độ tiến bộ của từng người và tập thể.. Nhanh chóng phát hiện những biểu hiện lệch lạc, sai sót về nhận thức, thái độ, động cơ trách nhiệm, về thực hiện kế hoạch, mục tiêu yêu cầu đề ra... định hướng, điều chỉnh, bổ sung nội dung kế hoạch cho phù hợp.
Bốn là, xây dựng môi trường văn hóa pháp luật, duy trì nghiêm pháp luật, kỷ luật ở đơn vị. Xây dựng môi trường văn hóa pháp luật và duy trì nghiêm kỷ luật, pháp luật là giải pháp cơ bản, đồng thời cũng là điều kiện rất quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở. Đây cũng chính là nhân tố tác động to lớn tới giáo dục pháp luật và quá trình hình thành, hoàn thiện nhân cách quân nhân của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở. Đòi hỏi, xây dựng môi trường văn hóa pháp luật và duy trì nghiêm pháp luật, kỷ luật ở đơn vị cơ sở cần tập trung xây dựng, củng cố hệ thống các quan hệ ứng xử văn hoá pháp luật ở đơn vị. Các cấp ủy, tổ chức đảng phải coi việc xây dựng môi trường văn hóa pháp luật, duy trì nghiêm pháp luật, kỷ luật ở đơn vị là một nội dung của hoạt động lãnh đạo; thường xuyên có chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện việc xây dựng môi trường văn hóa pháp luật và tăng cường pháp luật, kỷ luật ở đơn vị; căn cứ vào tình hình cụ thể, có thể ra nghị quyết chuyên đề lãnh đạo việc xây dựng môi trường văn hóa pháp luật, rèn luyện kỷ luật, phân công trách nhiệm tổ chức thực hiện cụ thể, rõ ràng. Người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trong quản lý, điều hành đơn vị hoạt động đúng các quy định của pháp luật và điều lệnh quân đội; quản lý chặt chẽ tình hình mọi mặt của đơn vị; chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức, lực lượng thực hiện đúng kế hoạch xây dựng môi trường văn hóa pháp luật, duy trì pháp luật, kỷ luật ở đơn vị. Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật, kỷ luật theo đúng quy định của pháp luật và Điều lệnh Quản lý bộ đội. Thường xuyên quan tâm bảo đảm đầy đủ các chế độ tiêu chuẩn qui định và những điều kiện phục vụ cho nhiệm vụ học tập, công tác, sinh hoạt hàng ngày của hạ sĩ quan, binh sĩ. Các chế độ tiêu chuẩn về ăn, mặc, ở, khám chữa bệnh... phải được quản lý, tổ chức đảm bảo đầy đủ cho hạ sĩ quan, binh sĩ. Thực hiện tốt chế độ dân chủ công khai về kinh tế, tài chính và các quyền lợi, trách nhiệm quân nhân, giải đáp kịp thời những thắc mắc của hạ sĩ quan, binh sĩ. Tổ chức chu đáo phong trào tăng gia sản xuất không ngừng cải thiện nâng cao đời sống, sử dụng hợp lý quĩ vốn do bộ đội làm ra, thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Quản lý chặt chẽ mọi cơ sở vật chất của đơn vị đồng thời chủ động khắc phục khó khăn, củng cố, xây dựng các công trình cũng như mua sắm thêm trang thiết bị phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhiệm vụ học tập, công tác của hạ sĩ quan, binh sĩ  và xây dựng môi trường văn hóa pháp luật ở đơn vị.
Tài liệu tham khảo:
(1). Hồ Chí Minh (1950), Nói về công tác huấn luyện và học tập, Toàn tập, Tập 9, Nxb CTQG, H, 2000, tr.50.
(2),(3).Hồ Chí Minh (1947), Sửa đổi lối làm việc, Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H, 2000, tr.234, 273.