Cách đây 74 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành
thành công cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, tạo bước ngoặt quan trọng
trong lịch sử phát triển của dân tộc. Thế mà, hiện nay vẫn còn có những kẻ cơ
hội chính trị tung ra luận điệu xuyên tạc, phủ nhận sự thật hiển
nhiên đó. Điều bịa đặt ấy thật trơ trẽn, lố bịch và không thể chấp nhận!
Hơn ai hết, nhân dân ta là người hiểu rõ, thấu đáo giá trị và ý nghĩa
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Thắng lợi đó là kết quả của quá trình đấu
tranh, hi sinh xương máu của toàn thể dân tộc Việt Nam suốt 15 năm dưới sự lãnh
đạo của Đảng kể từ ngày thành lập. Và đó còn là kết quả hơn 30 năm tìm đường
cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Để cuộc Tổng khởi nghĩa
giành thắng lợi, Đảng, Bác Hồ và toàn dân ta đã phải chuẩn bị toàn diện thực
lực cách mạng từ nhiều năm trước. Vào đầu năm 1941, trước những chuyển biến mau
lẹ của tình hình trong nước và thế giới, Bác Hồ về nước và Người đã cùng Trung
ương Đảng kịp thời nắm bắt tình hình, đề ra chiến lược, sách lược, xây dựng căn
cứ địa, chuẩn bị lực lượng, đào tạo, huấn luyện cán bộ, tổ chức, động viên,
lãnh đạo toàn dân chớp thời cơ chín muồi đứng lên lật đổ chế độ thực dân, phong
kiến, giành chính quyền về tay nhân dân.
Thực tế cho thấy, để có lực lượng cách mạng, từ cuối năm 1941 đến năm
1942, Đảng ta đã tổ chức ra các hội: Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ
nữ cứu quốc, Quân nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Tự vệ cứu quốc, v.v. Ở
căn cứ địa Việt Bắc, Đội Cứu quốc quân và Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng
quân lần lượt ra đời. Các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh và các lực
lượng vũ trang là chủ lực quân của cách mạng. Năm 1943, trước diễn biến mới của
tình hình, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp quyết định mở rộng Mặt trận Dân tộc
Thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị đề ra chủ trương
liên minh với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu nước trong và ngoài nước chưa
gia nhập Mặt trận Việt Minh, đẩy mạnh công tác vận động công nhân, nông dân,
binh lính, thanh niên, phụ nữ, tư sản, địa chủ yêu nước, các dân tộc thiểu số,
Hoa kiều, lập ra Hội văn hóa cứu quốc ở các thành phố,… nhằm đoàn kết, tập hợp
lực lượng cách mạng.
Ngày 09/3/1945, phát-xít Nhật đảo chính lật đổ chính quyền Pháp ở Việt
Nam. Ngay tối hôm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp và ngày 12/3/1945 ra
Chỉ thị lịch sử: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Hội
nghị quyết định phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước trong toàn quốc làm
tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa và quyết định thay đổi khẩu hiệu “Đánh đuổi
phát-xít Nhật ‒ Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát-xít Nhật”. Trước không khí
sục sôi cách mạng của quần chúng, khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn đói”
mà Đảng đưa ra đã đáp ứng nguyện vọng khẩn thiết của đại đa số nhân dân.
Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, nhận định
thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đã tới; Ủy ban khởi nghĩa ra Quân
lệnh số 1. Ngày 16/8/1945, “Quốc dân Đại hội Tân Trào” thông qua “10 Chính
sách lớn của Việt Minh”; quyết định quốc kỳ, quốc ca và bầu Chính phủ lâm thời
do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ 14-8 và đã giành thắng
lợi trên cả nước, với ngày 19-8 ở Hà Nội, ngày 23-8 ở Huế, ngày 25-8 ở Sài Gòn,
v.v. Như vậy, chỉ trong 15 ngày, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm
nên cuộc cách mạng “long trời, lở đất”, đón niềm “Vui bất tuyệt” mà
nhà thơ Tố Hữu đã diễn tả bằng những vần thơ giầu cảm xúc: “Ngực lép bốn ngàn
năm/ Trưa nay cơn gió mạnh/ Thổi phồng lên/ Tim bỗng hóa mặt trời”.
Đó là sự thật - sự thật lịch sử! chứ không phải như ai đó cố tình xuyên
tạc, với tâm địa đen tối, rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hứng được quả ngọt
trời cho là tình thế của Pháp, Nhật và hào khí của dân tộc lúc đó để cướp chính
quyền cho riêng mình”. Hơn thế, họ còn ngụy biện: “nếu không có Cách mạng Tháng
Tám, nước ta đã giầu mạnh từ lâu, chứ không phải nghèo hèn, mất dân chủ như bây
giờ ”. Thật trơ trẽn, một sự trơ trẽn trắng trợn! Trong khi mọi người đều biết
hoàn toàn không phải vậy và không phải biết có lý do nào khác mà là chính Đảng
Cộng sản Việt Nam, với đường lối đúng đắn, phương pháp cách mạng sáng tạo đã
nắm chắc, tận dụng thời cơ, biết tổ chức và tập hợp lực lượng, động viên
được toàn dân tộc làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Đó
còn là vai trò tiền phong, gương mẫu, bất chấp mọi hy sinh, gian khổ, quyết
chiến đấu vì quyền lợi của Tổ quốc và nhân dân của 5.000 đảng viên cộng sản. Họ
là những Chiến sĩ cách mạng kiên trung, bất khuất, một lòng, một dạ vì nước vì
dân, sáng ngời dũng khí chiến đấu, xung kích tiên phong, vào sống ra chết không
sờn lòng, đầu rơi máu chảy không lùi bước, tra tấn tù đày không khuất phục,
kiên quyết lãnh đạo cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân để
xây dựng đất nước độc lập, dân tộc tự do, nhân dân ấm no, hạnh phúc,
dân chủ, nhân quyền,...
Trong Tuyên ngôn độc lập đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 02/9/1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập
ấy”. Đặc biệt, ngay mở đầu bản Tuyên ngôn, Người nhấn mạnh tư tưởng về nhân
quyền được ghi trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và
bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789, coi đó là
“những tư tưởng bất hủ”, những “lẽ phải không ai chối cãi được”. Tuy nhiên,
Người cũng chỉ rõ: chỉ có dân tộc độc lập thì con người mới có thể có tự do,
hạnh phúc và không thể có được quyền con người, quyền công dân khi quyền độc
lập của dân tộc bị chà đạp. Con người ở đây theo nghĩa tất thảy mọi người,
trước hết là những người lao động bị áp bức, bóc lột chiếm đại bộ phận trong
nhân dân Việt Nam. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, những nội dung ấy luôn gắn chặt
với quyền dân tộc, quyền con người, quyền công dân. Đó cũng là tư
tưởng bất hủ mà Hồ Chí Minh đã đặt ra với tất cả chúng ta cách đây 74 năm - khi
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời. Và chính đó cũng là điều mà suốt 74
năm qua, biết bao thế hệ người Việt Nam hy sinh, phấn đấu để xây dựng một xã
hội “công bằng, dân chủ, văn minh”, chứ không phải một xã hội “mất dân chủ” như
ai đó rắp tâm xuyên tạc...
Còn nhớ, khi đất nước mới giành được độc lập, nhưng đã phải đương đầu với
bao nhiêu thử thách ngặt nghèo: ngân khố cạn kiệt, hai mươi vạn quân Tưởng kéo
vào miền Bắc, thực dân Pháp núp sau lưng quân đội Anh kéo vào miền Nam hòng lật
đổ chính quyền cách mạng non trẻ. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta
đã dựa chắc vào nhân dân, vận động nhân dân thực hiện tốt ba nhiệm vụ cách
mạng: chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Chính phủ đã kịp thời ban
hành các chính sách nhằm bồi dưỡng sức dân, động viên toàn dân thi đua tăng gia
sản xuất, thực hành tiết kiệm, học chữ quốc ngữ, củng cố và mở rộng khối đoàn
kết dân tộc. Đảng ta còn lãnh đạo thắng lợi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào
ngày 06/01/1946; vô hiệu hóa mọi âm mưu phản cách mạng, tạo cơ sở pháp lý cho
cuộc đấu tranh với kẻ thù và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ
trên thế giới. Việc ta ký với Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 06/3/1946 và Tạm ước
ngày 14/9/1946 là một chủ trương sáng suốt: thứ nhất, tạm
hòa hoãn với Pháp để phá tan âm mưu của bọn Tưởng và tay sai hòng đẩy ta vào
thế cô lập; thứ hai, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn
bị cho cuộc chiến đấu mới bảo vệ chính quyền cách mạng.
Nhằm xây dựng một chế độ mới, khác hẳn về chất so với chế độ áp bức, bóc
lột của chủ nghĩa thực dân, phát-xít và tay sai, phong kiến trước đây, ngay sau
khi giành được chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam tập trung lãnh đạo xây dựng
một thể chế chính trị kiểu mới; trong đó, mọi quyền lực và lợi
ích đều thuộc về nhân dân. Người dân Việt Nam, không phân biệt: gái trai, trẻ
già, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo, đều là chủ nhân của đất nước. Dân tộc -
Quốc dân là một khối thống nhất, không thể phân chia. Mọi công dân đều có nghĩa
vụ bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp, tuân theo và bình đẳng trước pháp luật;
được tự do ngôn luận, hội họp, tín ngưỡng, cư trú và đi lại...
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, gắn chặt lợi ích đất nước
với quyền lợi và nghĩa vụ công dân, tạo nguồn lực để Đảng và Nhà nước phát huy
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân khôi phục và xây dựng nền kinh
tế mới. Đảng ta đã phát động toàn dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tổ chức
cứu trợ người nghèo, khắc phục nạn đói. Đồng thời, tiến hành công cuộc cải
cách, tịch thu ruộng đất của bọn Việt gian, đế quốc, chia cho người nghèo; khôi
phục sản xuất nông nghiệp và các cơ sở sản xuất công nghiệp, như: khai thác
khoáng sản, chế biến nông, lâm và thủy sản; phục hồi giao thương hàng
hóa. Trong lĩnh vực tài chính, Nhà nước phát hành tiền giấy, đẩy
mạnh lưu thông, thúc đẩy kinh tế hồi phục. Nền kinh tế mới được xây dựng bằng
chính sự nỗ lực và công sức của toàn dân, nhằm phục vụ đời sống nhân dân, làm
giàu cho quốc gia và dân tộc.
Trên lĩnh vực văn hóa và giáo dục, cùng với xóa bỏ tàn dư văn hóa
và chính sách ngu dân để trị của chế độ cũ, Đảng ta kêu gọi toàn dân đoàn kết,
xóa bỏ hận thù, chung sức, chung lòng kiến thiết quốc gia; thành lập Nha Bình
dân học vụ, mở các lớp bổ túc văn hóa để xóa nạn mù chữ, khôi phục và mở rộng
hệ thống giáo dục phổ thông, cao đẳng và đại học. Đồng thời, ban hành Sắc lệnh,
định rõ nguyên tắc của nền giáo dục mới: đại chúng hóa theo tôn chỉ phụng sự lý
tưởng quốc gia và dân tộc, nhằm nâng cao nhận thức cho người dân, bồi dưỡng
hiền tài cho đất nước. Phương hướng xây dựng nền văn hóa mới là bảo đảm hạnh
phúc của nhân dân; phát huy giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu chọn lọc văn
hóa nước ngoài, tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho vừa sửa được thói hư tật
xấu, tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, vừa xây dựng nếp sống mới, làm cho
ai ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập.
Với lĩnh vực quốc phòng và an ninh, Đảng ta chủ trương nhanh chóng
phát triển lực lượng vũ trang, nhất là Quân đội và Công an. Lập quỹ quốc phòng,
thành lập đội quân Quốc gia Việt Nam và Việt Nam công an vụ; khẳng định, Quân
đội và Công an từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Lực lượng vũ trang
được tổ chức và biên chế thống nhất; cơ quan Bộ Quốc phòng, Nha Công an được
kiện toàn. Quân đội và Công an được xây dựng và huấn luyện toàn diện cả quân
sự, chính trị, hậu cần và các ngành chuyên môn nghiệp vụ khác. Nguyên tắc xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng là phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng. Tháng 01/1946, Trung ương Quân ủy được thành lập, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp là Bí thư Quân ủy, v.v. Đó là những nhân tố quan trọng bảo
đảm cho Quân đội ta là quân đội nhân dân, luôn giữ vững bản chất cách mạng, sẵn
sàng chiến đấu hy sinh để bảo vệ Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Đây chính là điểm
khác biệt về chất đối với quân đội cũ, một đội quân xâm lược, dùng để trấn áp
dân, đàn áp những người yêu nước và phong trào cách mạng, phục vụ lợi ích riêng
của nhà nước đế quốc và phong kiến.
Nhờ đường lối đúng đắn và bằng những chủ trương, biện pháp phù hợp đó,
chúng ta đã xây dựng được chính quyền của dân, do dân, vì dân vững mạnh, với cơ
sở kinh tế - chính trị - xã hội phù hợp, bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành thắng lợi, Tổ quốc thống nhất, Đất nước trọn
niềm vui Đại thắng mùa Xuân 1975. Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc của nhân dân ta trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế đã giành được
nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh,… Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và mở
rộng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường, tiềm lực và sức mạnh tổng
hợp của đất nước được nâng lên. Trên bình diện quốc tế, đến nay Việt Nam đã có quan
hệ ngoại giao với 180 nước ở tất cả các châu lục; tham gia vào hầu hết các tổ
chức, định chế quốc tế và khu vực và là một thành viên có trách nhiệm quốc tế
của cộng đồng quốc tế, uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Tất
cả những điều đó là minh chứng cho những giá trị mà Cách mạng Tháng Tám đưa
lại; đồng thời, là bằng chứng hùng hồn nhất, thuyết phục nhất để bác bỏ mọi
luận điệu xuyên tạc, phủ nhận sự kiện lịch sử trọng đại, vẻ vang này./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét