Thứ Tư, 16 tháng 12, 2020

CẢNH GIÁC TRƯỚC CÁC HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG VẤN ĐỀ “XÃ HỘI DÂN SỰ” ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẤT NƯỚC


Thời gian gần đây, một số đối tượng cơ hội chính trị lợi dụng việc Đảng ta tiến hành lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo các văn kiện phục vụ Đại hội XIII để đưa ra nhiều quan điểm, ý kiến trái chiều, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong đó, các đối tượng tích cực cổ súy, ca ngợi, hình tượng hóa vấn đề “xã hội dân sự”, yêu cầu Đảng ta phải có cơ chế khuyến khích “xã hội dân sự” phát triển. Sự thật, đây là một chiêu bài để hiện thực hóa chiến lược “diễn biến hòa bình”.

Khái niệm “xã hội dân sự” (Civil Society) có nguồn gốc từ phương Tây, được hiểu là những hoạt động tập thể tự nguyện, được hình thành và vận hành trong không gian công cộng và tư nhân; tồn tại độc lập, dưới hình thức các tổ chức và thiết chế tự quản, nằm ngoài vùng ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố nhà nước, yếu tố thị trường và ngoài khu vực gia đình.

Trong chiêu bài này, “dân chủ” chỉ là vỏ bọc để các đối tượng đưa ra nhằm đánh lừa nhận thức của người dân. Mục tiêu của việc thúc đẩy cái gọi là “xã hội dân sự” tại Việt Nam là tạo ra con đường để hình thành các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập với Đảng Cộng sản một cách công khai, hợp pháp. Cách thức của chúng là ra sức cổ súy tính ưu việt, sự dân chủ của “xã hội dân sự” để đánh lừa nhận thức của người dân, cũng như hạ bệ vai trò của hệ thống chính quyền, rêu rao luận điệu cho rằng các tổ chức “xã hội dân sự” hoạt động ưu việt và hiệu quả hơn nhiều so với các cơ quan công quyền; đồng thời, tung ra luận điệu đòi tuyệt đối hóa sự “độc lập” của các tổ chức “xã hội dân sự”, đòi thúc đẩy thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức “xã hội dân sự”. Từ đó, các đối tượng đưa Việt Nam đi vào con đường đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản với Nhà nước và xã hội.

Chúng ta khẳng định: Đảng, Nhà nước ta không kỳ thị, không ngăn cản việc người dân lập hội, tham gia các tổ chức “xã hội dân sự”. Điều 25, Hiến pháp 2013 đã quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Tuy nhiên, tất cả các hội nhóm, đoàn thể đều phải tuân thủ nghiêm các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Mọi hoạt động núp bóng thành lập “xã hội dân sự” để sản sinh ra các hội, nhóm chống đối đều là vi phạm, cần phải chấn chỉnh, loại bỏ./. (MP)

“NHÂN QUYỀN” VÀ “CHỦ QUYỀN”


Dưới xu hướng “Cuồng tây”, trong thời gian gần đây đã xuất hiện một số luận thuyết như “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, hay “nhân quyền toàn cầu”, “nhân quyền không biên giới”…. nó đã gieo rắc vào ý thức hệ của một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân và được không ít các thành phần phản động trong và ngoài nước dùng làm “kim chỉ nam” để hoạt động chống phá đất nước. Nhân ngày Quốc tế nhân quyền (Nói thẳng luôn: làm đếch gì có chuyện “Nhân quyền” cao hơn “Chủ quyền”, chẳng qua là do chúng đánh tráo khái khái niệm, gây nhầm lẫn mà thôi. Thực ra luận thuyết trên chỉ là một hình thức biến tướng của chủ nghĩa thực dân kiểu mới, chúng sử dụng nó làm chiêu bài để can thiệp trắng trợn vào nội bộ các nước có chủ quyền từ đó nhằm thay đổi thể chế chính trị theo hướng có lợi cho chúng hoặc chiếm đoạt các tài nguyên và lợi ích kinh tế của các nước khác mà thôi.

Quan hệ nhân quyền là quan hệ về cá nhân, còn quan hệ chủ quyền quốc gia là quan hệ cộng đồng các cá nhân trong quốc gia đó. Hai mối quan hệ cơ bản của con người là nhân quyền và chủ quyền quốc gia không cùng một bậc, không cùng một tuyến tiếp cận, và do đó, không thể đem so sánh cái này cao hoặc thấp hơn cái kia. Việc quy chủ quyền quốc gia về cùng một bậc với nhân quyền, rồi coi “nhân quyền” cao hơn “chủ quyền” là một việc làm phản khoa học và thiếu tính thuyết phục. Đó là một sự đánh tráo khái niệm rất thô thiển, trắng trợn nhằm thực hiện ý đồ chính trị xấu.

Tuy nhiên, muốn có “Nhân quyền” trước hết chúng ta phải thực sự có “Chủ quyền”, “Nhân quyền” phải dựa trên các điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia chứ không phải là phụ thuộc vào sự áp đặt của “nước lớn” dành cho “nước bé”; nếu chủ quyền của một quốc gia, dân tộc bị xâm phạm, bị chà đạp, thì nhân quyền của quốc gia, dân tộc cũng chẳng bao giờ được đảm bảo cả. Để minh chứng cho vấn đề này chúng ta hãy quay về thời kỳ “Pháp thuộc” để thấy được sự khốn cùng khi mất đi chủ quyền, con người phải sống cảnh nô lệ, chết đói, chết rét…. Vậy lúc đó ai sẽ thực hiện và đòi “Nhân quyền” cho chúng ta????? (Không có ai ngoài những người cộng sản). Thế mà bây giờ khi đất nước đã hòa bình, hệ thống pháp luật đã cơ bản hoàn thiện thì vẫn còn một số đối tượng chống đối không hiểu hoặc cố tình không hiểu vẫn tiếp tục đòi cái gọi là “nhân quyền không biên giới”. (HMP)

 

KHÔNG CÓ NƠI NÀO NHƯ ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM TÔI


Ngày xưa, cha ông ta đánh đuổi ngoại xâm cút khỏi lãnh thổ, thì ngày nay chúng ta ba lần đập tan giặc dịch Covid, không thể bùng phát được. Thông điệp "không có ai bị bỏ lại phía sau" của Chính phủ, của Thủ tướng chính phủ đã trở thành mệnh lệnh tối thượng để cả nước một lòng, các ngành các cấp quyết liệt vào cuộc chống dịch như chống giặc. Quân đội, Công an xác định đây là nhiệm vụ chiến đấu của thời bình... Nhìn những cụ già, em nhỏ cầm mớ rau, lon gạo ủng hộ chính quyền, những chiến sĩ nằm rừng ngủ núi, những nhân viên y tế kiệt sức sau hàng chục giờ trong phòng áp lực âm... mà lòng ta quặn thắt, càng thôi thúc sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và phát triển...

Ngày xưa, cha ông ta một lòng hướng ra tiền tuyến vì mục tiêu tự do độc lập và thống nhất non sông với những khẩu hiệu "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", hay "xe chưa qua, nhà không tiếc", thì ngày nay cả nước chung tay vì Miền Trung ruột thịt, từ cao nguyên Đồng Văn cho đến đất mũi Cà Mau, hàng chục triệu người như một, những chuyến xe nghĩa tình nối đuôi nhau ngày đêm về Miền Trung như đoàn xe Trường Sơn năm ấy mà ta càng thêm tự hào về tinh thần tương thân tương ái của con cháu Lạc Hồng duy nhất chỉ có ở Việt Nam. Hình ảnh Quân đội, Công an, dân quân, thanh niên xung phong... sẵn sàng hy sinh quên mình cứu dân trong lũ dữ, ta càng xúc động biết chừng nào...

Năm 2020 đang dần khép lại với những mất mát về người và tài sản do thiên tai dịch họa khách quan. Nhưng qua những hoạn nạn ấy một lần nữa khẳng định cho chúng ta và toàn thế giới biết rằng dân tộc Việt Nam hùng cường lắm, nghĩa tình lắm, nhân văn lắm. Từ lãnh đạo tối cao cho đến mỗi người dân, tất cả một lòng vì quê hương đất nước, vì một Việt Nam trường tồn và vững mạnh...

Description: 💖Yêu quý và tự hào vô cùng đất nước Việt Nam tôi! (HMP)

 

HÃY LUÔN NHỚ, VIỆT NAM CHÚNG TA CHƯA TỪNG CHỊU THUA, DÙ LÀ BẤT CỨ KẺ ĐỊCH NÀO!

HÃY LUÔN NHỚ, VIỆT NAM CHÚNG TA

CHƯA TỪNG CHỊU THUA, DÙ LÀ BẤT CỨ KẺ ĐỊCH NÀO!

 

Dự thảo luật cảnh sát biển của Trung Quốc được Quốc hội nước này công bố ngày 6-11 khiến nhiều quốc gia lân bang quan tâm. Theo dự luật này, cảnh sát biển của Trung Quốc có quyền sử dụng vũ khí đối với các tàu nước ngoài được cho là vi phạm vào "vùng biển của Trung Quốc" trong hai trường hợp: trong tình huống khẩn cấp hoặc khi các lời cảnh báo của Trung Quốc (như yêu cầu dừng tàu và cho cơ quan chức năng của Trung Quốc lên tàu kiểm tra) bị phớt lờ.

Đây là động thái cho thấy người Trung Quốc đã tính toán rất kỹ từng nước cờ trên biển Đông, điều này hết sức nguy hiểm. Nếu họ áp dụng Luật này ngay trên vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của họ thì chẳng nói làm gì. Thế nhưng, điều gì sẽ xảy ra với các nước lân bang khi người Trung Quốc áp dụng đối với đường 9 đoạn phi pháp, xâm phạm chủ quyền của các nước khác, trong đó có Việt Nam? Điều này khiến cho nhiều người không khỏi lo lắng cho an nguy của ngư dân ta, những lo ngại đó là có cơ sở. Tuy nhiên, nhiều tổ chức phản động ở hải ngoại đã triệt để lợi dụng vấn đề này để quy kết Đảng và nhà nước ta, kích động nhân dân bài tàu một cách cực đoan, thậm chí là kêu gọi tẩy chay hoặc thậm chí là kích động chiến tranh với họ. Hãy hết sức thận trọng, không mắc mưu kẻ gian!

Là một quốc gia lân bang nhưng VN ta không hề bị người tàu thôn tính dù trải qua hàng trăm cuộc chiến lớn nhỏ. Nói thế để hiểu rằng, tổ tiên chúng ta rất anh minh. Dù lịch sử có thăng, có trầm nhưng về cơ bản chúng ta vẫn giữ được độc lâp, chủ quyền cho đến tận ngày nay. Các cụ ngày xưa, khi “thiên triều” mang binh xâm lược nước ta thì lúc đó người Việt lại chung lưng đấu cật để chiến đấu đánh bại chúng. Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung và cả cuộc chiến chống quân bành trướng năm 1979 của nước CHXHCN VN đều có điểm chung là cha ông ta không bao giờ chịu cúi đầu trước cường địch. Quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để dạy cho họ bài học lớn về tinh thần và khí phách nước Việt. Đánh cho họ biết thế nào là “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư” như lời Lý Thường Kiệt và đánh cho để sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ như lời vua Quang Trung.

Các cụ ngày xưa tinh anh ở chỗ là khi đã chiến thắng người TQ, tiền nhân ngay lập tức chủ động giảng hòa vì suy cho cùng thì người tàu vẫn là cường quốc, chúng ta vì muốn yên ôn để phát triển, họa binh đao không phải là cái phúc của xã tắc, của muôn dân trăm họ. Các triều đại chấp nhận ngoài mặt xưng “thần” và gọi họ là “thiên triều” nhưng trong nước thì xưng là Hoàng đế; thần phục là giả nhưng độc lập, tự chủ mới là thật; chứ tiền nhân không hề run sợ trước bạo quyền.

Ngày nay vẫn thế, ta và tàu vẫn là hàng xóm của nhau, đó là điều không thể thay đổi nếu trái đất còn quay quanh mặt trời! Ngoại trừ câu chuyện về biển, đảo thì về cơ bản hiện nay Việt - Trung vẫn đang hợp tác tốt trên nhiều lĩnh vực. Vậy không có cớ gì để phải đánh nhau với TQ, không có cớ gì để bài tàu. Bài tàu thì cái mất sẽ nhiều hơn cái được. Hai nhà hàng xóm nếu ghét nhau đến mức “xúc đất đổ đi” thì có thể mua lô đất khác, nhà khác để tránh xa tên hàng xóm đáng ghét; nhưng tầm quốc gia thì không bao giờ! Việt - Trung, núi liền núi, sông liền sông và chúng ta dù muốn hay không cũng phải là hàng xóm của họ. Ví như hai nhà hàng xóm mà lấn chiếm đất của nhau thì trước hết vẫn phải hòa giải rồi sau đó mới tính đến chuyện kiện ở tòa án nữa là tầm quốc gia đại sự. Khi còn nhiều lựa chọn thì chúng ta vẫn phải ưu tiên giải pháp ngoại giao hòa hiếu trên tinh thần luật pháp quốc tế.

VN vừa mới tạm yên được, kể từ năm 1995 đến nay khi Mỹ bỏ cấm vận và ta bình thường hóa quan hệ với tàu năm 1991. Đất nước đang phát triển từng ngày, đời sống nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, ta phải giữ môi trường hòa bình để phát triển kinh tế, nhân dân không phải lầm than do chiến tranh. Hãy tin tưởng ở các quyết sách của Đảng và nhà nước ta. Khi không còn cách nào khác, khi tổ quốc cần thì tổ quốc sẽ gọi, lúc đó các bạn sẽ tình nguyện xung phong. Các bạn nên nhớ là Quân đội ta không bao giờ để bị động, bất ngờ. Hãy giữ trái tim nhiệt huyết, cặp mắt tinh tường và nhãn quan sâu rộng. Đừng nghe những gì mà các thế lực thù đích kích động để làm phức tạp thêm tình hình. (HMP)

 


XIN HÃY NGHĨ VỀ NHỮNG NGƯỜI CHIẾN SỸ VẪN ĐANG NGOÀI BIÊN CƯƠNG CỦA TỔ QUỐ

Sau 3 tháng không ghi nhận các ca lây nhiễm covid-19 trong cộng đồng, sau lần bùng phát dịch thứ hai hồi tháng 6, tháng 7 đã cướp đi sinh mạng của 35 người - trong đó phần nhiều là những người lớn tuổi và sau những ngày vất vả, hàng triệu con người căng mình dập dịch những tưởng rằng chúng ta có thể yên tâm đếm từng ngày để tạm biệt năm 2020 xui xẻo thì luôn có "những pha đá phản lưới nhà ở phút 90"; hoặc có thể nói rằng “đốt luôn lưới đội nhà” chứ đá phản lưới gì tầm này nữa Description: 🙂

Một tiếp viên hàng không dương tính với covid-19 đã lây nhiễm cho 2 người khác, hàng chục người đang là F1, F2 của anh ta, hàng chục ngàn người bị ảnh hưởng, các chuyến bay thương mại từ nước ngoài bị huỷ bỏ, nguyên cơ làn sóng Covid-19 mới đang chực chờ ập đến...

Điều đáng nói nhất ở đây chính là sự chủ quan, thiếu ý thức của chính nam tiếp viên này mà mình đã có phân tích trong những bài trước.

Nếu bạn chưa biết, thì ngay bây giờ - ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc, các cán bộ, chiến sỹ lực lượng Bộ đội Biên phòng đang ứng trực 100% quân số khi nhận thông tin phía Campuchia đang có 10 ca dương tính covid-19 chưa xác định được nguồn lây, và đặc biệt là tình hình vượt biên trái phép để buôn lậu ở vùng biên giới này luôn rất "sôi động" trong thời điểm cận Tết.

Năm 2020 thực sự là một năm "rất vất vả" của các chiến sỹ Quân đội Nhân dân, 2 lần bùng phát dịch bệnh họ đều cùng các bác sỹ ở tuyến đầu chống dịch, nhiều đồng chí phải hoãn cưới, nhiều đồng chí cha mẹ qua đời không thể về chịu tang. Dịch bệnh tạm lắng thì thiên tai bão lũ xảy ra, hơn 30 đồng chí đã nằm lại trong cơn lũ dữ, trong vùng sạt lở, có đồng chí hy sinh khi mới tròn 20 tuổi.

Đôi vai của họ đã nặng trĩu, vậy chẳng lẽ chúng ta lại tăng thêm gánh nặng ấy lên vai họ bằng sự vô ý thức của mình? Đôi khi, chỉ cần kiềm chế những ham muốn riêng tư của bản thân mình, chịu khó không gặp người yêu dăm bữa nửa tháng, chịu khó không tụ tập quán xá, cafe, chém gió đôi ba tuần, chịu khó đeo khẩu trang khi ra đường... chính là chúng ta đã giúp đỡ đất nước của mình rất nhiều!

Tết đang đến gần, nếu gia đình bạn được sum họp đón năm mới thì cũng xin bạn nghĩ về những người lính, họ cũng cần được về nhà sau 1 năm đầy vất vả chứ? Hơn bao giờ hết, trong thời điểm này, ý thức chính là sức mạnh! (HMP)

CHÚNG TA CÓ LÊN LIÊN MINH QUÂN SỰ TRONG BẢO VỆ TỔ QUỐC LHT

Liên minh quân sự không phải là giải pháp tối ưu trong bảo vệ độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam.

Việc tham gia liên minh hay không, liên minh với nước nào, lúc nào, như thế nào, để làm gì, liên minh đến đâu là tùy thuộc các yếu tố khách quan, chủ quan của từng thời kỳ lịch sử; phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc và nhất là phụ thuộc rất lớn vào chính sách quốc phòng cũng như các mối đe dọa đối với an ninh quốc gia của nước đó.

Liên minh quân sự không phải là tất yếu và cũng không hề có cái gọi là bắt buộc phải liên minh quân sự giữa các nước. Trong lịch sử, đã có việc một số nước lớn lợi dụng liên minh quân sự để thỏa hiệp, mặc cả, đổi chác với nhau vì lợi ích dân tộc hẹp hòi của họ; thông qua viện trợ quân sự để có những động thái chi phối, tác động đến hoạt động quốc phòng, phương thức tác chiến của quân đội ta.

Cho nên, việc tìm kiếm hay tham gia các liên minh quân sự không phải là giải pháp tối ưu, hiệu quả để bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh quan hệ quốc tế hiện nay. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa không thể dựa vào bất kỳ liên minh nào, hiệp ước nào, càng không thể trông chờ vào nước ngoài mà phải bằng chính bản lĩnh, trí tuệ, thực lực của đất nước, con người Việt Nam.

Do đó, chúng ta không lựa chọn và cũng không chủ trương tham gia liên minh quân sự hoặc dùng liên minh quân sự để bảo vệ Tổ quốc. Trong bảo vệ Tổ quốc, chúng ta nhất quán chủ trương “thêm bạn, bớt thù”, gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu và bị cô lập, lệ thuộc; tăng cường sự hiểu biết, xây dựng sự đồng thuận và lòng tin quốc tế, mở rộng mặt đồng thuận để thu hẹp, rút ngắn mặt mâu thuẫn, khác biệt; thực hiện vừa hợp tác, vừa đấu tranh; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, mở rộng đối ngoại quốc phòng với nhiều quốc gia trên thế giới ở những mức độ khác nhau dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, hợp tác cùng phát triển. Những biện pháp vừa cương quyết, vừa khéo léo, mềm dẻo của Việt Nam trong giải quyết các vấn đề quốc tế có liên quan đến lợi ích quốc gia - dân tộc đã chứng minh sự đúng đắn của đường lối đối ngoại quốc phòng và xử lý các vấn đề tranh chấp. Nếu tham gia liên minh quân sự sẽ phải chấp nhận để nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ, sử dụng một phần lãnh thổ, trở thành “bàn đạp” để nước ngoài phát động chiến tranh xâm lược nước khác, rất dễ bị lôi kéo vào mâu thuẫn, xung đột giữa các nước. Tham gia liên minh quân sự nghĩa là đi theo bên này và có thể đối đầu với các bên khác, tức là đã chuốc thêm kẻ thù. Chúng ta không đứng về bên nào, chỉ đứng về phía hòa bình, công lý, lẽ phải và tiến bộ theo luật pháp quốc tế.

Cho nên, những ý kiến cho rằng, Việt Nam phải tham gia liên minh quân sự bằng cách “bắt tay” với nước ngoài để “giữ lấy Biển Đông” là không phù hợp, trái với đường lối, quan điểm của Đảng, đi ngược lại xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển mà Việt Nam kiên trì theo đuổi. Thực chất, đây là âm mưu, thủ đoạn hết sức thâm độc của các thế lực thù địch, núp bóng vỏ bọc “yêu nước”, “bảo vệ chủ quyền lãnh thổ” mà chúng ta cần phải đề cao cảnh giác, chủ động phát hiện, đấu tranh kiên quyết, không để bị lừa gạt, gây tổn hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc.

Lại có kẻ xuyên tạc chuyện đời tư các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước TB

Gần đây, trên trang mạng xã hội lại xuất hiện những kẻ xuyên tạc chuyện đời tư các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Điển hình bài viết “Bà chủ tịch ăn dày” y đã cho rằng Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân lợi dụng chức vụ để mua chiếc đồng hồ đắt đỏ đeo trên tay hiệu Thuỵ Sĩ với giá hơn 4000USD, hơn 300 bộ áo dài để phục vụ cho nhu cầu cá nhân riêng mình. Đây là luận điệu hoàn toàn sai trái, xuyên tạc, phản động nhằm hạ thấp nhân cách, thanh danh, uy tín của Chủ tịch quốc hội trước thềm Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Thực tế không phải như vậy, bởi vì:

Các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước là những người có năng lực, phẩm chất về đạo đức, lối sống, được Nhân dân tin yêu, kính trọng. Sinh ra và lớn lên ở vùng đất Bến Tre, quê hương của phong trào Đồng Khởi nổi tiếng trong những ngày đánh Mỹ sục xôi. Được thừa hưởng truyền thống anh hùng cách mạng của quê hương, với sự nỗ lực cố gắng không ngừng, Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã trải qua nhiều cương vị khác nhau trước khi được bầu làm Chủ tịch quốc hội, ở vị trí nào cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ, có đóng góp nhất định vào sự nghiệp cách mạng chung của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Ở vị trí lãnh đạo cao cấp của đất nước như vậy, việc mặc đẹp, mặc lịch sử, trang nghiêm cũng là điều đương nhiên, dễ hiểu, bình thường như bao người phụ nữ Việt Nam khác.

Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân là người đại diện cho quốc gia, dân tộc, cho người phụ nữ Việt Nam đưa hình ảnh chiếc áo dài truyền thống đã trở thành huyền thoại của đất nước ra thế giới để thực hiện quan điểm đối ngoại đa dang hoá, đa phương hoá của Đảng, Nhà nước ta, một mặt để quảng bá hình ảnh, đất nước con người Việt Nam, mặt khác khẳng định bản lĩnh kiên cường, trung hậu, bất khuất, đảm đang của người phụ nữ Việt Nam hiện nay. Hiện nay, thu nhập bình quân trên đầu người ở nước ta đạt 3000 USD/năm, với mức thu nhập này đa phần đời sống của Nhân dân được cải thiện rõ rệt, hầu hết các gia đình Việt Nam đều có cuộc sống khá giả, ổn định, phát triển, có đầy đủ các tiện nghi phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu của đời sống sinh hoạt hàng ngày. Đời sống vật chất được cải thiện, nâng cao người Việt Nam nói chung và người phụ nữ nói riêng họ cũng có quyền được làm đẹp không những cho bản thân mình, mà còn cho xã hội. Đặc biệt, qua những lần tiếp xúc cử chi, gặp gỡ Nhân dân, Chủ tịch quốc hội rất gần dân, sát dân, lắng nghe ý kiến của Nhân dân, khẳng định rằng: Quốc hội luôn đồng hành cùng với Nhân dân, giải quyết những thắc mắc, nguyện vọng của Nhân dân, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao trong toàn xã hội. Rõ ràng, có thể khẳng định rằng, những hành động, việc làm của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước nói chung và Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nói riêng đều vì dân, vì nước, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, của Đảng lên trên hết, không có chuyện tư lợi cá nhân cho riêng mình. Với những cống hiến, đóng góp của mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, năm 2016, Tạp chí Forbes bình chọn bà là người phụ nữ ảnh hưởng nhất Việt Nam trong danh sách 20 người phụ nữ khi đang giữ cương vị Phó Chủ tịch Quốc hội khóa XIII.

Mỗi chúng ta phải có trách nhiệm kịp thời lên tiếng, đấu tranh, đẩy lùi thông tin xuyên tạc, bịa đặt; kiên quyết không để kẻ xấu coi thường kỷ cương phép nước, cố tình bôi nhọ uy tín, thanh danh các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và cá nhân đồng chí Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhằm gây hoang mang dư luận, gây nghi kỵ lẫn nhau, chia rẽ đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng không tốt đến công tác chuẩn bị nhân sự của Đại hội Đảng các cấp, nhất là Đại hội lần thứ XIII của Đảng.   

Thành Đỗ đừng có hão huyền về việc Đảng đổi tên nước TB

Thời gian gần đây, trên trang danlambao Thành Đỗ đưa ra những suy nghĩ, nhận thức hết sức sai trái, phản động, với bài viết “Chừng nào đảng sẽ đổi tên đất nước”. Thành Đỗ đã trắng trợn xuyên tạc sự thật lịch sử, sâu xa hơn là phủ nhận những hy sinh sương máu của những anh hùng liệt sĩ cho đất nước, khi cho rằng: Hiệp ước Thành Đô 1990 về thực chất là sự thoả thuận cho việc sát nhập Việt Nam vào đại gia đình Trung quốc vào năm 2020 đã giao ước từ 30 năm trước. Sự thật lịch sử là không phải như vậy, bởi.

Thứ nhất, Việt Nam là dân tộc tự lực, tự cường không bao giờ cam tâm làm tay sai, nô lệ cho kẻ thù xâm lược.

Trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta phải liên tiếp đương đầu chống giặc ngoại xâm, tiến hành hàng chục cuộc kháng chiến để bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ, hàng trăm cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng để giành lại độc lập dân tộc, với thời gian chống ngoại xâm và chống đô hộ của nước ngoài lên đến 12 thế kỷ. Hoàn cảnh lịch sử khắc nghiệt đó đã tôi luyện nên ý thức tự lực, tự cường, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất không bao giờ chấp nhận đầu hàng kẻ thù xâm lược của nhân dân Việt Nam. Nguyễn Trãi đã từng khẳng định: “Tuy mạnh yếu khác nhau, xong hào kiệt đời nào cũng có”. Hơn một ngàn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, nhân dân ta không lúc nào chịu cam phận, mà luôn đấu tranh, chống lại áp bức, đô hộ. Ý chí tự lực, tự cường giành độc lập dân tộc chưa lúc nào nguôi ngoai thể hiện ở những cuộc nổi dậy và xưng vương, xưng đế của những anh hùng dân tộc. Truyền thống đó thấm sâu trong nhân dân như mạch nước ngầm trong lòng đất, nó bắt nguồn từ mỗi con người, từ mỗi làng xóm, lặng lẽ đổ vào biển cả tạo thành truyền thống của cộng đồng người Việt. Quang Trung - Nguyễn Huệ đã khẳng khái tuyên bố: “Đánh cho nó chích luân bất phản; đánh cho nó phiến giáp bất hoàn; đánh cho sử tri, Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. Điều đó có nghĩa là: Đánh cho nó, một chiếc xe để chạy về nước cũng không có. Đánh cho nó, một mảnh giáp cũng chẳng còn. Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng là có chủ.  Dưới ngọn cờ của Đảng hơn bao giờ hết truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc từng bước được bồi đắp qua hàng ngàn năm lịch sử, nay càng được phát huy mạnh mẽ, phong phú và sáng tạo, đã lập được những kỳ tích vĩ đại, vẻ vang vào bậc nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.

Chừng bấy những thông tin, sự kiện lịch sử đã đủ minh chứng cho ý thức tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam; cho ý chí, bản lĩnh và sức mạnh con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mãi là động lực, nguồn gốc của tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất, không bao giờ làm tay sai, nô lệ cho kẻ thù xâm lược. Đó là thực tiễn lịch sử để bác bỏ luận điệu xuyên tạc, phản động của Thành Đỗ về sự sát nhập của Việt Nam vào đại gia đình Trung quốc.

Thứ hai, toàn thể dân tộc Việt Nam là khối thống nhất về ý chí và hành động cách mạng, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.

Mỗi người dân Việt Nam dù sinh sống ở trong hay ngoài nước đều chung dòng máu con Lạc cháu Hồng, đều thấm thía giá trị của độc lập, tự do, hạnh phúc, không có hà cớ gì để mất độc lập, tự do một lần nữa. Bình thường thì những hoạt động đó diễn ra theo nhịp độ, bước đi của đời sống, khi đất nước có sự biến, có sự xâm phạm đến lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc thì tinh thần, truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam dâng cao, trở thành ý chí và hành động thiết thực, cụ thể, đạp qua mọi sóng to, gió cả bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng mà ông cha đã phải đánh đổ mồ hôi, sương máu, nước mắt của mình mới có được. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là của toàn thể dân tộc Việt Nam, thể hiện sâu sắc ý chí mạnh mẽ và quyết tâm sắt đá của nhân dân ta, quyết tâm bảo vệ nền độc lập mới giành được, thể hiện lập trường kiên định về độc lập, tự do của dân tộc, phản ánh niềm tin vững chắc vào sức mạnh của dân tộc Việt Nam, dù phải hy sinh gian khổ, song quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập. Giờ đây, đất nước có thêm nhiều sức mạnh để củng cố và phát triển, Việt Nam không chỉ có tên trên bản đồ mà còn có vị thế và uy tín lớn trên trường quốc tế; không chỉ có chủ quyền thống nhất từ đất liền đến biển đảo khơi xa mà còn có quan hệ ngoại giao và kinh tế với hơn 180 nước khắp các châu lục. Dân tộc Việt Nam không chỉ tái sinh và làm “mát dạ ông cha nghìn thuở trước” mà còn đủ tầm, đủ lực hội nhập bàn chuyện bốn biển năm châu hiện tại và mai sau. 

Đất nước Việt Nam là của dân tộc Việt Nam, được hình thành, phát triển từ những đau thương, hy sinh, mất mát vô cùng to lớn của lớp lớp những người con ưu tú của dân tộc. Thành Đỗ đừng có hão huyền, ảo tưởng, có giấc mơ về bao giờ Đảng sẽ đổi tên nước. Nhà thơ Tố Hữu đã viết:

“Việt Nam dân tộc anh hùng

tay không mà đã thành công nên người”.

 

 

 

 

 

 

Những luận điệu xuyên tạc về luật Đặc khu của Trần Mai Trung VK

  Có chung một mong muốn, nguyện ước đất nước mãi trường tồn, ổn định và phát triển đi lên. Thế nhưng trong thời gian gần đây, các phần tử cơ hội chính trị, bất mãn với đất nước đã điên cuồng chống phá hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, kích động nhân dân gây rối, biểu tình chống đối lại Đảng, Nhà nước. Tiêu biểu trong số đó là Trần Mai Trung với bài viết “Bóng ma trong Đặc khu” đăng trên trang danlambao. Xuyên suốt bài viết là những luận điệu xuyên tạc về chính sách huy động nguồn lực trong và ngoài nước để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta với Trung Quốc; chia rẽ mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Có thể chỉ rõ tính sai trái, xuyên tạc của Trần Mai Trung trên những vấn đề chính yếu cơ bản sau:

Vấn đề 1

Thứ nhất, Trần Mai Trung cho rằng, Đảng và Nhà nước ta phát triển luật Đặc khu nhưng lại đi vay Trung Quốc, buộc nhân dân Việt Nam và con cháu chịu trách nhiệm cho dự án.

Đây là luận điệu hoàn toàn sai trái, phản động, thể hiện cái nhìn hết sức méo mó, dị dạng của Trần Mai Trung. Bởi, việc kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh ngoài nước, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại luôn được Đảng và Nhà nước ta khai thác, sử dụng đúng lúc, đúng thời điểm, cho phép khơi dậy những tiềm năng, thế mạnh vốn có của đất nước và tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ ở bên ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. Bài học về sự kết hợp đúng đắn, hài hoà giữa nguồn lực trong nước và nguồn lực ngoài nước đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào từng giai đoạn, thời kỳ lịch sử cụ thể và có những cơ chế, chính sách rất kịp thời, hợp lý để từng bước huy động các nguồn lực vào sự nghiệp đổi mới đất nước. Như chúng ta đều biết, Việt Nam đi lên xây dựng đất nước từ một điểm xuất phát thấp bởi sự tàn phá hết sức nặng nề của chiến tranh, sự bao vây, cấm vậy của đế quốc Mỹ, đó còn là sự khắc nghiệt của thiên tai, hạn hán, lũ lụt… Trong bối cảnh đó, Đảng, Nhà nước và nhân ta ta đã không chịu khuất phục trước đói nghèo, lạc hậu, tìm mọi cách đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, chủ động nắm vững thời cơ, vận hội.  Phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam đã được thực tiễn lịch sử kiểm nghiệm, chứng minh để dựng xây, kiến thiết đất nước, thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đến ngày thắng giặc Mỹ xâm lược ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước đã được phát huy một cách cao độ, trở thành mục tiêu, động lực để mỗi giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xã hội phấn đấu vươn lên, đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập và phát triển như vũ bão của kinh tế thế giới hiện nay, việc tăng cường giao lưu, trao đổi, ký kết giúp đỡ nhau về các phương diện kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, an ninh, quốc phòng giữa các nước trên thế giới nói chung và với Trung Quốc nói riêng cũng là điều dễ hiểu. Chỉ có điều, trong quá trình đó, phải bảo đảm mục tiêu tối thượng của quốc gia, dân tộc là độc lập dân tộc, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, không được đánh đổi chủ quyền của quốc gia, dân tộc bằng bất cứ giá nào, không được đi ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc. Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định rằng: Làm sao đất nước yên bình tiến lên nhưng phải giữ vững độc lập chủ quyền. Cố gắng giữ quan hệ cho tốt nhưng cái gì thuộc về độc lập chủ quyền dân tộc, ta không bao giờ nhân nhượng, tinh thần của ta là quyết chiến, quyết thắng.

Vấn đề 2

Thứ hai, Trần Mai Trung xuyên tạc mối quan hệ tốt đẹp giữ Đảng Cộng sản Việt Nam và đảng cộng sản Trung Quốc, khi cho rằng: Đảng sợ Trung Quốc, xem trọng Trung Quốc hơn nhân dân Việt Nam, làm việc cho quyền lợi của ngoại bang, là một bộ phận của đảng cộng sản Trung Quốc… Đây là luận điệu của kẻ phản động, cố tình xuyên tạc vu khống Đảng, Nhà nước ta và phá hoại mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tiến hành hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giành lấy độc lập, tự cho dân tộc, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong suốt quá trình đó, Đảng ta đã không ngừng phấn đấu cho mục tiêu mục tiêu xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam hiện tại đang duy trì đường lối đối ngoại với Trung Quốc trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Lãnh đạo cấp cao của Việt Nam trong thời gian gần đây đã thực hiện các chuyến công du tới Trung Quốc và nhiều nước trên thế giới để thiết lập quan hệ ngoại giao một cách chặt chẽ hơn, nhằm mang lại những cơ hội hợp tác giữa các doanh nghiệp và phát triển kinh tế cho đất nước.

Từ sau Hội nghị Thành Đô năm 1990, Việt Nam và Trung Quốc đã định ra khuôn khổ hợp tác, từ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” (năm 1999) đến “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” (năm 2005) và cuối cùng là “đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” (năm 2008)… Những mối quan hệ hợp tác, trao đổi giữa hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội giữa hai nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động giao lưu, đi lại diễn ra thông suốt, giữ vững tình đoàn kết hữu nghị của nhân dân hai nước. Đặc biệt, trong những năm gần đây tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Trung Quốc và Việt Nam đều có bước phát triển rất tốt. Hai bên đã phát triển tốt mối quan hệ đối tác, hợp tác toàn diện; mối quan hệ trong kinh tế, thương mại không ngừng phát triển. Lịch sử cho thấy, nếu giải quyết đúng hướng, đúng cách những nút thắt trong lịch sử và ở thời điểm hiện tạ sẽ mang lại cho hai nước, hai dân tộc nhiều cơ hội mới để cùng phát triển trong hữu nghị, hòa bình và thịnh vượng. Dù có những thời khắc thăng trầm, chưa hiểu rõ lẫn nhau về các phương diện, song xu hướng chủ đạo vẫn là hữu nghị và hợp tác, đó là dòng chảy chính trong quan hệ hai nước. Những vấn đề tồn tại, nảy sinh trong xã hội như vấn đề Biển Đông, biên giới, Luật Đặc khu đã được lãnh đạo hai nhà nước từng bước xử lý có hiệu quả và đem lại những kết quả nhất định, góp phần thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc từng bước phát triển lên tầm cao mới. Đó là sự thật, không phải là những điều tráo trở, thờ ơ như Trần Mai Trung nói ra.

Vấn đề 3

Thứ ba, Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân mãi là nguồn gốc, động lực để giữ vững sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước. Với cái nhìn thiển cận, thiếu thực tiễn, Trần Mai Trung đã hồ đồ quy kết, khi cho rằng: Đảng khinh thường nhân dân, bắt giam hàng ngàn người dân đã phản đối luật Đặc khu và gọi họ là thế lực thù địch.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Tư tưởng đó đã thấm đẫm biết bao hy sinh, mất mát của những người Cộng sản trung kiên, chiến đấu cho độc lập tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã không ngừng chăm lo lợi ích của nhân dân, coi đó là mục đích thiêng liêng cao quý, là khát vọng cháy bỏng của Đảng ta trong mọi thời kỳ cách mạng, là mạch nguồn, bồi đắp của mọi thắng lợi. Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nói: Trong điều kiện ngày nay, nếu không chăm lo một cách cụ thể, thiết thực đời sống vật chất và tinh thần của quần chúng nhân dân thì dù có nói bao nhiêu quan điểm, đường lối về quần chúng nhân dân cũng đều là vô nghĩa, không mang tính thiết thực. Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân là sự thâm nhập, bổ sung cho nhau trong mỗi một quan điểm, đường lối lãnh đạo đất nước của Đảng, Nhà nước ta, đem lại những điều kiện thuận lợi nhất cho nhân dân, đến lượt mình những hoạt động của nhân dân đều hướng tới thực hiện thắng lợi thắng lợi những quan điểm, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước đã xác định.

Đó là những cơ chế, chính sách thiết thực, cụ thể ở những vùng, miền gắn với quyền lợi của các giai cấp, giai tầng khác nhau trong xã hội; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, được bày tỏ những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng và những bức xúc, chưa sáng, chưa rõ đối với những chính sách chưa đúng, chưa rõ; nhân dân được tham gia bàn bạc, thảo luận, hiến kế vào các chương trình, dự án, kế hoạch của Đảng, Nhà nước thông qua sinh hoạt ở cấp cơ sở; Đảng, Nhà nước ta có những chỉ đạo quyết liệt trong việc xử lý nghiêm theo đúng quy định của pháp luật đối với ai đi ngược lại với lợi ích quốc gia, dân tộc, không chấp hành nghiêm pháp luật, có biểu hiện gây rối, mật trật tự an ninh xã hội, kích động, dụ dỗ, lôi kéo nhân dân tham gia biểu tình, chống đối lại chính quyền cơ sở, phát tán những thông tin sai sự thật, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước…  Nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cũng từng khẳng định: “Chỉ có sự đồng lòng, nhất trí của toàn dân, khối đại đoàn kết dân tộc mới là sức mạnh vô địch để chúng ta vượt qua mọi sóng to, gió lớn của thời cuộc”. Mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân sẽ mãi là nguồn gốc, động lực để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: Chưa bao giờ đất nước đứng trước nhiều thời cơ và thuận lợi lớn như hiện nay. Chúng ta phải tận dụng triệt để những thời cơ lớn đó, phải nỗ lực bằng tất cả trái tim và khối óc, phải hành động bằng ý chí và sức mạnh của cả dân tộc chúng ta; bằng sự đoàn kết chung sức, đồng lòng của toàn dân và trong toàn hệ thống chính trị cũng như trong từng cơ quan, đơn vị, địa phương. Do vậy, những hành động, việc làm của Đảng, Nhà nước ta trong dựng xây, kiến thiết đất nước cũng đều vì dân, vì nước, đều vì sự thịnh vượng, ổn định và phát triển của đất nước, đưa uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng tăng trong cộng đồng thế giới.

 

 

 

 

Kẻ xuyên tạc lịch sử dân tộc VK

Trong khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang ra sức thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh mồng (2/9/1945 - 2/9/2020), thì một số kẻ lại cố tình xuyên tạc, bóp méo bản chất các sự kiện lịch sử cách mạng Việt Nam. Điển hình là Nguyễn Dân, với bài viết “lịch sử tái diễn - Mỹ 2 lần giúp cộng sản Việt Nam, và sẽ… lần 3”. Nội dung bài viết là những thông tin, sự kiện hoàn toàn sai trái, phản động, bịa đặt không đúng về thắng lợi vĩ đại của nhân ta trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Đại thắng mùa Xuân 1975.

 Trong bài viết của mình, Nguyễn Dân cho rằng: Lần thứ nhất, được sự giúp đỡ của Mỹ, cộng sản Việt Minh mới cướp được chính quyền 19/8/1945, thành công. Lần thứ 2, thành công ngày 30/4/1975, một chiến thắng có được là do Mỹ bỏ cuộc, thất hứa, không giúp Việt Nam cộng hòa, cũng như phong trào phản chiến ở Mỹ đã giúp cộng sản Việt Nam thành công… Sự thật lịch sử không phải như vậy. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã ghi nhận, chứng minh rằng: muốn đấu tranh chống lại giặc ngoại xâm giành được thắng lợi, nhân dân ta phải dựa vào sức mình là chính, không thể trông chờ vào sự giúp đỡ từ bên ngoài được. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập. Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Đại thắng mùa Xuân năm 1975 thắng lợi không phải tự nhiên mà có, đó là sự kết tinh sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, viết nên bản hùng ca về bản lĩnh, ý chí và sức mạnh con người Việt Nam.

Để Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và giành thắng lợi quyết định, Đảng ta đã có sự chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt từ đường lối chính trị, căn cứ địa cho đến lực lượng cách mạng. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương VIII (5/1941), Đảng ta chủ trương nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt quyền lợi của quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích của giai cấp. Để tập hợp, đoàn kết rộng rãi quần chúng nhân dân và phát triển lực lượng chính trị, Đảng ta thành lập Mặt trận Việt Minh, với chủ trương, đường lối của cách mạng đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Trước những biến đổi mau lẹ của tình hình thế giới, khi thời cơ cách mạng đến, nhất là vào tháng 3/1945, khi Nhật đảo chính Pháp, Đảng ta đã ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; tiếp đến đêm 13/8, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập, ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh Tổng khởi nghĩa; đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào và chiến sĩ cả nước kêu gọi nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vi cả nước. Trong thời gian ngắn từ ngày 18/8 đến 28/8/1945, hệ thống chính quyền từ Trung ương cho đến địa phương đã về tay nhân dân. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đây lịch sử của dân tộc ta đã bước sang một trang mới.

Tiếp nối mạch nguồn chiến thắng đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, nhân dân ta đã trải qua năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ, phức tạp, quyết liệt nhưng rất oanh liệt, hào hùng, đánh bại cường quốc xâm lược có vũ khí quân sự vào bậc hiện đại nhất thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân ta đã không hề choáng ngợp trước sức mạnh quân sự của kẻ thù xâm lược; với đường lối lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết hợp sức dân tộc với sức mạnh thời đại nhân dân ta đã từng bước đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ xâm lược và chính quyền tay sai nguỵ quyền Sài Gòn, làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ngày 30/4/1975, thực hiện trọn vẹn lời căn dặn thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:“Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: Đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa, nhằm đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, thống nhất nước nhà.

Như vậy, có thể khẳng định rằng: Những thắng lợi mà nhân dân ta giành được trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Đại thắng mùa Xuân năm 1975 hoàn toàn dựa vào sức mình là chính, đó là biết tranh thủ sức mạnh lực lượng thời đại để làm nên chiến thắng. Những người Việt Nam yêu nước chân chính không bao giờ chấp nhận hành động của một số ít những kẻ cố tình mưu toan đổi trắng thay đen, mưu toan viết lại lịch sử, hòng phủ nhận quá khứ hào hùng của dân tộc, thành tựu phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dẫu một bộ phận người Mỹ có giúp cách mạng Việt Nam nhưng đó cũng chỉ là sự giúp đỡ rất nhỏ, và chính Đảng Cộng sản Việt Nam đã biết tận dụng chính sự giúp đỡ đó. Nhưng còn với chiến thắng 30/4/1975, việc Mỹ phải tháo chạy khỏi Việt Nam, không dám giúp cho Việt Nam cộng hoà nữa chính là kết quả của tinh thần chiến đấu của cả dân tộc Việt Nam đã “đánh cho Mỹ cút” thì tất yếu sẽ “đánh cho nguỵ nhào”.

 MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CHĂM LO BỒI DƯỠNG THẾ HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU

Theo Hồ Chí Minh, vận mệnh của dân tộc, tương lai của đất nước tùy thuộc vào phẩm chất và bản lĩnh của thế hệ trẻ. Chúng ta thấy rõ quan điểm này trong thư của Hồ Chí Minh gửi thanh niên, học sinh nhân ngày khai trường năm đầu tiên của nước Việt Nam độc lập (9 – 1945). Người viết: “Non song Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường cuốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.

Thế hệ trẻ, đặc biệt là lớp thanh niên, ở mỗi thời kỳ lịch sử, luôn là một bộ phận quan trọng của xã hội, của một quốc gia – dân tộc, hơn thế nữa, họ còn là người chủ tương lai của đất nước. Nhưng tương lai của dân tộc, tiền đồ của đất nước, sự phát triển của cách mạng đều phụ thuộc vào lớp thanh niên. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, nếu thanh niên không có nhận thức về vai trò của mình thì sự nghiệp cách mạng không thể đi tới thành công. Theo Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thanh niên là lực lượng to lớn, là đội quân xung phong, là cánh tay đắc lực và đội hậu bị của Đảng. Lời dạy: “Đâu Đảng cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên” đã khẳng định rõ quan điểm của Người. Hồ Chí Minh nói: “Tôi luôn nói đến thanh niên, vì trong mọi công việc, thanh niên ta luôn hăng hái xung phong và họ xứng đáng là cánh tay đắc lực của Đảng”. Vì vậy, thế hệ trẻ là lực lượng kế thừa và tiếp bước các thế hệ cha anh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cho đến nay, việc giáo dục bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau vẫn còn nguyên giá trị. Hồ Chí Minh đã nhiều lần quán triệt, cuộc cách mạng XHCN là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, nhiều thử thách và là công việc của nhiều thế hệ kế tiếp nhau, mỗi thế hệ chỉ có thể phấn đấu đạt được một số mục tiêu, đi được một hoặc vài bước trên cả lộ trình cách mạng. Thực tế ấy đặt ra vấn đề các thế hệ đi trước không chỉ đơn thuần trao lại cho những thành quả cách mạng mình đã đạt được, mà còn phải chuẩn bị những điều kiện tinh thần, vật chất để thế hệ sau có thể kế thừa, phát triển và bảo vệ thành quả của các thế hệ cha ông. Việc giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là nhằm chuẩn bị những lớp người kế tục sự nghiệp của Đảng và dân tộc, giữ vững và phát huy thành quả cách mạng của lớp người đi trước. Đó là một việc làm cần phải chủ động, tích cực, nhằm tạo nên lớp kế tục xuất sắc và trung thành với lý tưởng và con đường mà thế hệ cha ông đã lựa chọn.

Vì thế, theo quan điểm Hồ Chí Minh để bồi dưỡng thế hệ trẻ một cách toàn diện cần quán triết một số nội dung sau:

Thứ nhất, giáo dục, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng. Giáo dục bồi dường lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ nghĩa là bồi dưỡng để họ có nhận thức đúng đắn về CNXH, trước hết phải biểu hiện ở tinh thần yêu Tồ quốc, tự hào với truyền thống dân tộc, truyền thống của các thế hệ cha ông trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ hai, giáo dục, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ về đạo đứ cách mạng. Trong giáo dục đạo đức cách mạng, theo Người cần có những nội dung cụ thể như: trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hiếu với dân. Chữ trung, chữ hiếu theo Bác Hồ phải có tính chất rộng lớn. Đạo đức cách mạng có nghĩa là: Phải thực hiện khiêm tốn, giản dị, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành đúng đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước; Cống hiến hết mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ ba, giáo dục, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ có trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật và nghề nghiệp. Hồ Chí Minh đã quán triệt với thế hệ trẻ: thế giới luôn đổi mới, khoa học – kỹ thuật luôn đổi mới, công nghệ ngày càng tinh xảo, nhân dân ngày càng tiến bộ, vì vậy thế hệ thanh thiếu niên phải thường xuyên học tập để tiến kịp nhân dân, để nâng cao trình độ văn hóa, nắm bắt những tri thức khoa học – kỹ thuật mới. Điều mà Người đặc biệt quan tâm là tính thực tiễn trong việc học. Theo Hồ Chí Minh, học tập là để nâng cao hiểu biết, hiểu biết là để áp dụng vào việc làm, học mà không làm thì học mấy cũng vô ích. Với tinh thần quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh, việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ khoa học – kỹ thuật, trình độ ngoại ngữ, nắm bắt và áp dụng tốt công nghệ mới, tiên tiến cho thế hệ trẻ hiện nay có ý nghĩa hết sức to lớn.

Thứ tư, giáo dục, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ có đầy đủ thể chất. Bồi dưỡng năng lực phải đi đôi với bồi dưỡng thể chất. Theo Hồ Chí Minh, thế hệ trẻ có tri thức nhưng lại phải có sức khỏe tốt mới hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Người cho rằng việc giáo dục thế hệ trẻ phải toàn điện, phải đủ các mặt đức, trí, thể, mỹ.

Phương châm, phương pháp giáo dục bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau:

Một là, phải biết giáo dục thế hệ trẻ có ý thức kết hợp chặt chẽ học với hành, luôn áp dụng những điều học vào cuộc sống thực tiễn

Hai là, giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ phải là công việc của toàn Đảng, toàn dân;; phải thực hiện phương châm nhà trường, gia đình và xã hội kêt hợp chặt chẽ, phải lây gương người tốt việc tốt để giáo dục.

Ba là, phải động viên giáo dục thanh thiếu niên có ý thức tự giác học, tự giác rèn luyện.

Bốn là, phải hết sưc coi trọng việc xây dựng các tổ chức của thanh thiếu niên; hoạt động của các tổ chức này phải thường xuyên, có hiệu quả, có nền nếp. Việc thanh thiếu niên được tập hợp sinh hoạt,học tập và rèn luyện trong cac tổ chức riêng của họ sẽ có ý nghĩa giáo dục và sẽ đạt hiệu quả cao hơn.

Trong thời đại ngày nay, thanh niên phải học tập, được bồi dưỡng đạo đức cách mạng là yêu cầu cấp thiết. Chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, cần rất nhiều động lực để hoàn thành, đạo đức chính là động lực của lịch sử. Thế hệ trẻ ngày nay phải phát huy truyền thống ông cha, tu luyện đạo đức để đóng góp vào sự nghiệp đổi mới đất nước.

 

 

 

 

 

 

Âu Dương Thệ - kẻ xuyên tạc đường lối đổi mới của đất nước VK


Với đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội đất nước, kể từ sau Đại hội VI (12/1986) đến nay, nước ta đã trải qua gần 35 năm với thành tựu rất đáng tự hào trên tất cả các mặt, lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, thời gian gần đây một số phần tử cơ hội chính trị, bất mãn với chế độ đã phủ nhận điều đó, với bài viết “không thể trông chờ hay van xin những kẻ độc tài và luôn cúi đấu đế quốc ban phát dân chủ” của Âu Dương Thệ đã trắng trợn cho rằng: “sau hơn 9 năm kể từ ngày 8/9/2011 khi các đề nghị trong ý kiến chúng tôi cải cách toàn diện để phát triển đất nước đã cho thấy càng xấu, càng tồi tệ và cực kỳ nguy hiểm”. Sự thật là không phải như vậy, bởi vì:

Trước năm 1986 khi chưa đổi mới, đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng, nền kinh tế - xã hội kiệt quệ bởi hậu quả của chiến tranh để lại, sự bao vây, cô lập, cấm vận của đế quốc Mỹ; lạm phát tăng cao trên 700%, đời sống của nhân dân vô cùng khổ cực, thiếu thốn trăm bề; phải thường xuyên nhập khẩu gạo; chủ quyền, lãnh thổ của đất nước vẫn đang bị đe doạ… Trước tình hình như vậy, để tiếp tục đưa con thuyền cách mạng Việt Nam phát triển đi lên, Đảng đã có những chủ trương, quyết sách đúng, trúng, tạo ra bước ngoặt mới cho đất nước đó là: xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn, sáng tạo, hợp lòng dân của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước đã diễn ra toàn diện, sâu sắc, khơi dậy được phẩm chất, truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam vào quá trình dựng xây, kiến thiết đất nước.

Sau gần 35 đổi mới đất nước vượt qua biết bao thử thách, khó khăn đến nay đã đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Điều này được thể hiện rất rõ ở nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, về phát triển kinh tế - xã hội: năm 1989 xuất khẩu được 1,5 triệu tấn gạo, năm 2019 là 6,38 triệu tấn; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 5,9%/năm. Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người tăng lên (năm 2020, GDP ước đạt 268,4 tỉ USD và thu nhập bình quân đầu người ước đạt 2.750 USD/người/năm). Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng từ 4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015 lên 5,8%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Đặc biệt, việc triển khai Chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa… cho đến nay các xã, cụm dân cư đã có đủ cơ sở xã hội thiết yếu, như: Điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế; an ninh, chính trị ổn định, vị thế và tiếng nói của Việt Nam ngày càng cao trong cộng đồng quốc tế. Chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với 186 nước trên tổng số 194 quốc gia thành viên Liên hiệp quốc. Việt Nam là thành viên của hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực như Liên hiệp quốc, ASEAN, APEC, IMF, WB, Phong trào Không liên kết… Mặc dù nền kinh tế Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, thế nhưng những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam những năm qua là không thể phủ nhận. Đại hội XII của Đảng đã nhận định: Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo: con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

R ràng nhận thấy, những thành tựu nổi bật ở trên là kết quả quá trình nghiên cứu, tìm tòi, trải nghiệm nghiêm túc, công phu, thận trọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, không phải tự nhiên mà có. Đó là sự phản ánh đúng đắn khách quan xu thế của thời đại và yêu cầu nhiệm vụ đất nước đặt ra cho chúng ta phải đổi mới, là sự đoàn kết, thống nhất cao về ý chí và hành động cách mạng của khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đem đến những thắng lợi nối tiếp thắng lợi của đất nước trong quá trình đổi mới đất nước. Những thành tựu không thể phủ nhận của sự nghiệp đổi mới đất nước chính là minh chứng cho sự đúng đắn, trí tuệ và sáng suốt, quyết đoán của Đảng ta. Đường lối đổi mới đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục soi sáng con đường chúng ta đi, không một lực lượng nào có thể ngăn cản được bước đi thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Thứ Tư, 9 tháng 12, 2020

TĂNG CƯỜNG PHÒNG, CHỐNG “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA’’ TRONG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

                                                                 

Nghiên cứu sự xuất hiện thuật ngữ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cho thấy những khía cạnh của nó như sự tự tan giã, tiêu vong của quốc gia, chế độ, tổ chức chính trị xã hội; sự tự thay đổi lập trường tư tưởng, đạo đức, lối sống của cá nhân,… đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử thế giới, cũng như ở Việt Nam.

Trong lịch sử chiến tranh thế giới đã nói đến thủ đoạn “chiến tranh tâm lý” tung tin thất thiệt làm quân, dân nước đối địch hoang mang, dẫn đến tự tan vỡ, thua trận. Trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chưa đề cập thuật ngữ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với nghĩa là thay đổi thể chế, chế độ chính trị song cũng đã đề cấp một số khía cạnh của “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” về tư tưởng ở tổ chức công nhân, cộng sản. Trong lịch sử cách mạng Nga, từ năm 1903 đã xuất hiện một bộ phận có tư tưởng cách mạng tiểu tư sản trong nội bộ Đảng Bônsêvích Nga. Tháng 5 năm 1918, V.I.Lênin viết tác phẩm Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản, phê phán sai lầm của phái “tả” trong nội bộ Đảng Bônsêvích Nga. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập, cảnh báo một số căn bệnh của “đảng cầm quyền”, sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận đảng viên, đó là tham ô, lãng phí, quan liêu,…

Tuy nhiên, thuật ngữ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ thực sự xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây cùng với chiến lược “diễn biến hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống các nước xã hội chủ nghĩa và các nước có khuynh hướng tiến bộ không theo quĩ đạo của chủ nghĩa tư bản.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được hiểu là sự tự thay đổi thể chế chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa và các nước có khuynh hướng tiến bộ dưới sự tác động của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch bằng “diễn biến hoà bình”… Biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” rất phong phú, đa dạng. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, anh ninh.

Trong tình hình hiện nay, cần nhận thức sâu sắc rằng, nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là hiện hữu. Nguy cơ đó xuất hiện từ cả hai phía, từ phía chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch và từ chính chúng ta.

Về phía chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch: Chúng đã đang đẩy mạnh nhiều hoạt động thâm độc, nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong nội bộ Đảng và Nhà nước ta. Chúng sử dụng tổng hợp các biện pháp trên các lĩnh vực tư tưởng, chính trị, kinh tế, văn hóa ... kết hợp “nội công, ngoại kích”, tác động từ trong ra và từ ngoài vào nhằm chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta thành chế độ tư bản chủ nghĩa…

Về phía ta: “Mảnh đất màu mỡ”, điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là tình trạng suy thoái trong Đảng…

Trước thực tế này, cho thấy việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta trong đó trọng tâm là phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng, trong đội ngũ cán bộ Đảng viên là vấn đề cấp. Do vậy, để phòng, chống có hiệu quả sự “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” trong cán bộ, đảng viên cần phải thực hiện đồng bộ các biện pháp cả trên các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức; kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, trong đó tập trung vào một số biện pháp chủ yếu sau:

- Cần tạo ra sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là Đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh…

- Tập trung vào xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán, bộ đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, chủ trì, đứng đầu các cơ quan Đảng, Nhà nước thật sự trong sạch vững mạnh, thực hiện tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, luôn nêu cao tính tiền phong, gương mẫu trong mọi lúc, mọi nơi để lôi cuốn quần chúng học tập, noi theo.

- Đi liền với chăm lo xây dựng các tổ chức Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên vững mạnh, cần đẩy mạnh cuộc đấu tranh ngăn chặn đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhằm kiên quyết loại bỏ những con “sâu mọt” ra khỏi bộ máy cơ quan Đảng, Nhà nước, làm trong sạch các tổ chức đảng, bộ máy chính quyền, không để cho chủ nghĩa đế quốc và các thế lực có “mảnh đất màu mỡ” để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.

- Đảng phải quan tâm, chăm lo lãnh đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, của đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm khẳng định sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta…

Chúng ta tin tưởng rằng, với sự đồng lòng, đồng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, chúng ta nhất định sẽ ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, tiến tới làm thất bại hoàn toàn chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch./.

                                                    TB