Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2022

KHÔNG THỂ BÓP MÉO, XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN


Có thể nói, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân hiện đại là phát kiến vĩ đại của C.Mác. Bằng cái nhìn duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận chứng về sứ mệnh của giai cấp công nhân trong toàn bộ học thuyết của mình, song tập trung nhất là ở lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học.

Tuy nhiên, thời gian qua, một số người nhận thức chưa đầy đủ hoặc sai lệch về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, thậm chí, có đối tượng còn cố tình xuyên tạc, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Để góp phần phê phán các nhận thức sai lệch này và bảo vệ, phát triển Chủ nghĩa Mác là nhiệm vụ chung của chúng ta hiện nay.

Trước hết ta thấy, chủ nghĩa xã hội khoa học khoa học đã làm rõ những tất yếu, quy luật cùng những điều kiện, lực lượng, động lực, lộ trình để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Xã hội hóa trong sản xuất kinh tế và dân chủ hóa trong đời sống chính trị-xã hội là những tiền đề của chủ nghĩa xã hội khoa học do chính quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản tạo ra. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của chủ nghĩa xã hội khoa học là nền sản xuất phát triển cao được xây dựng trên cơ sở xác lập chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là một tất yếu xuất phát từ yêu cầu xã hội hóa của sản xuất công nghiệp, được thực hiện thông qua tự giác thực hiện quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là cốt lõi của lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học.

Bên cạnh đó, trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện đại, vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là trọng điểm đấu tranh của cả giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản cùng nhiều sắc thái chính trị-xã hội khác nhau. Họ biết rõ rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là cốt lõi của chủ nghĩa xã hội khoa học và phủ nhận được sứ mệnh này là phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân và đảng cộng sản. Gần đây, trong xu thế phát triển của thế giới với trình độ kinh tế tri thức và hướng tới cách mạng công nghiệp 4.0, cũng có ý kiến cho rằng, “trong kinh tế tri thức thì sứ mệnh lịch sử là của trí thức chứ không phải của công nhân”. Đây là một nhận thức không đầy đủ.

Một giai cấp muốn đảm nhận sứ mệnh xác lập một hình thái kinh tế-xã hội mới, nhất thiết phải đáp ứng các điều kiện trên. Đội ngũ trí thức không hội đủ các điều kiện ấy. Ngộ nhận về sự tăng lên của vai trò trí thức trong phát triển hiện đại đôi khi khiến người ta lãng quên những mối quan hệ, các đặc điểm và vị thế của trí thức trong tồn tại xã hội. Trí thức có công khái quát những tri thức lý luận và nâng cao trình độ nhận thức của phong trào công nhân. Trí thức có thể cùng với giai cấp công nhân và nhân dân làm nên lực lượng của cách mạng XHCN. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân cần đến sự hợp tác của trí thức và tự mình nâng cao tri thức, kỹ năng lao động hiện đại. Nhưng đảm nhận vai trò lãnh đạo cách mạng XHCN thì chỉ có giai cấp công nhân mới đủ cơ sở, điều kiện, năng lực thực tế.

Có thể khẳng định rằng, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là một học thuyết về giải phóng và phát triển hiện đại do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin luận giải một cách khoa học, hệ thống. Đây là vũ khí tư tưởng của các đảng cộng sản, của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh với ý thức hệ tư sản và các thế lực thù địch với CNXH. Chúng ta cần luôn cảnh giác phát hiện và đấu tranh với những tư tưởng sai lầm, xuyên tạc để bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng của lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và qua đó, bảo vệ chế độ XHCN cần được xem là nhiệm vụ thường trực.

Ở Việt Nam, chúng ta cần thấm nhuần sâu sắc rằng, thực hiện thành công sự nghiệp “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển đất nước nhanh và bền vững” để tạo ra cơ sở vật chất cho CNXH và “xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh” cần được xem là những cơ sở hiện thực, phương hướng chính để làm rõ và khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam đối với dân tộc và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.

ĐL.11

ĐA ĐẢNG THÌ CÓ DÂN CHỦ, MỘT ĐẢNG THÌ MẤT DÂN CHỦ - THỰC RA LÀ MỘT TRÒ “LẬP LỜ ĐÁNH LẬN CON ĐEN”


Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng cả trong thời kỳ giành, giữ chính quyền và công cuộc xây dựng, phát triển Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nhận thức rõ vấn đề đó, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ chính trị tại Việt Nam, hướng Việt nam đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, các thế lực thù địch chú trọng tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Bên cạnh những hoạt động như tác động, chuyển hóa; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ Đảng thì một mũi tấn công trọng yếu, thường xuyên được các thế lực thù địch tiến hành thời gian vừa qua là đẩy mạnh hoạt động phá hoại tư tưởng với nhiều luận điệu “tấn công trực diện” vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Thông qua các hoạt động phá hoại tư tưởng để tác động nhằm thay đổi nhận thức, niềm tin của các tầng lớp nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào tính tất yếu của sự ra đời và lãnh đạo cách mạng của Đảng, từ đó lôi kéo các tầng lớp nhân dân vào con đường chống đối lại Đảng, hình thành nên các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập tại Việt Nam, tiến tới thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng. Các thế lực thù địch ngày càng tung ra hàng trăm, hàng nghìn các luận điệu khác nhau tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Do tác động từ hoạt động phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch, cộng với thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không tích cực học tập, quán triệt chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như nhận thức chính trị còn non kém nên trong nội bộ Đảng cũng đã xuất hiện một số cán bộ, đảng viên “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị. Đáng chú ý còn có một số người tỏ ra đồng tình, ủng hộ, thậm chí là cổ súy cho một luận điểm phá hoại tư tưởng rất phổ biến, đó là chỉ thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì Việt Nam mới có dân chủ, xã hội Việt Nam mới có thể phát triển sánh kịp với các quốc gia khác trên thế giới. Và ngược lại, nếu vẫn duy trì chế độ một đảng thì sẽ đồng nghĩa với độc tài, sẽ cản trở quá trình phát triển phát triển của đất nước (!).

          Đây là một luận điệu hết sức nguy hiểm, bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ và phát triển. Những người có nhận thức chính trị không vững vàng có thể đễ dàng bị đánh lừa bởi luận điệu này, từ đó cổ súy cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Vì vậy, việc nhận diện đầy đủ và đấu tranh phản bác, thuyết phục, vạch rõ những điểm giả dối, phản cách mạng, phản khoa học trong luận điệu “đa nguyên, đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển” là vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của chế độ hiện nay. Vì:

          Một là, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là nguyện vọng của toàn thể nhân dân; giải quyết được cuộc khủng khoảng về đường lối giải phóng dân tộc. Nhiều phong trào yêu nước đã xuất hiện như phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, Yên Bái nhưng lần lượt thất bại, rơi vào bế tắc. Trong bới cảnh đó, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin và chính Người đã có công truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, hợp nhất ba tổ chức đảng thành một tổ chức thống nhất để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.

          Hai là, Đảng Cộng sản đủ khả năng lãnh đạo để đưa đất nước phát triển, không cần thiết phải thực hiện đa nguyên, đa đảng. Điều này đã được lịch sử chứng minh. Năm 1945, chỉ 15 năm sau ngày thành lập với chỉ khoảng 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo toàn thể nhân dân làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám lịch sử, lật đổ ách áp bức của thực dân, phong kiến, lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ Công hòa, đưa nhân dân Việt Nam bước vào kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập, tự do. Tiếp sau đó, Đảng lại phải lãnh đạo nhân dân làm nên hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, làm nên những chiến thắng vang dội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của đất nước…

          Ba là, tiêu chí cao nhất của hoạt động chính trị là ổn định xã hội bền vững và tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội được bảo đảm, một đảng hay đa đảng, đa nguyên hay không đa nguyên cũng đều phải vì vấn đề cốt lõi này.

          Bốn là, dân chủ, phát triển không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng và thực hiện đa nguyên, đa đảng không đồng nghĩa với sẽ có dân chủ và phát triển.

          Vậy về mặt thực tiễn, thực hiện đa nguyên, đa đảng không đồng nghĩa với việc sẽ có dân chủ, không đồng nghĩa với việc sẽ đưa đất nước phát triển. Thực tiễn nhiều nước đã chứng minh rằng, có những nước đa đảng nhưng vẫn thuộc loại nghèo nhất trên thế giới. Tuy nhiên, cũng có những nước chỉ có một đảng lãnh đạo nhưng vẫn là một nước rất phát triển với đời sống nhân dân sung túc. Điều đó có nghĩa là đa nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho sự phát triển, thực hiện đa đảng không đồng nghĩa với việc đất nước sẽ phát triển. Vấn đề quan trọng nằm ở chỗ không phải là đa đảng hay một đảng lãnh đạo mà quan trọng nhất là đường lối lãnh đạo đúng đắn của đảng cầm quyền./.

LĐ.11

CẢNH GIÁC TRƯỚC “VIÊN ĐẠN BỌC ĐƯỜNG”


Những ngày qua, dư luận cả nước dành sự quan tâm đặc biệt đối với việc đến thời điểm này đã có hơn 70 cán bộ ở trung ương, địa phương, lực lượng vũ trang, ngành Y tế bị kỷ luật Đảng, khởi tố, bắt giam do sai phạm liên quan đến Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á. Quá trình điều tra, làm rõ sai phạm của những cá nhân trong vụ án đang được các cơ quan tố tụng thực hiện, nhưng chắc chắn rằng, trong số họ có rất nhiều người từng là đảng viên đã không giữ được mình, sa ngã trước “viên đạn bọc đường”.

Còn nhớ, khi nói chuyện với các lực lượng trước khi vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội (1954), nhiều người thắc mắc không biết từ chiến khu về xuôi thì lương bổng, công tác sau này ra sao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bổ sung một điều chưa ai nêu ra: "Khi về xuôi thì đạo đức và nhân cách của mình phải thế nào?" Rồi Người căn dặn: "Bom đạn của địch không nguy hiểm bằng “đạn bọc đường” vì nó làm hại mình mà mình không trông thấy"… Soi chiếu với những gì diễn ra gần đây, đặc biệt là khi Đảng đẩy mạnh yêu cầu “tự soi”, “tự sửa” thông qua công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lời Bác dặn năm xưa vẫn vẹn nguyên giá trị. Bởi chỉ trong 5 năm trở lại đây, “viên đạn bọc đường” thông qua các hình thức như: Hoa hồng, chiết khấu, hối lộ, phí bôi trơn, cổ phiếu ưu đãi… đã là “phép thử” và làm nhiều cán bộ “gục ngã” do không đủ bản lĩnh vượt qua ma lực của đồng tiền, của vòng danh lợi.

Trước “đại án” chưa có điểm dừng liên quan đến Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á, nhiều cán bộ, nguyên cán bộ cấp cao, cựu tướng lĩnh cũng đã bị “viên đạn bọc đường” xuyên thủng, bị kỷ luật Đảng nghiêm khắc, đồng thời phải chịu xử lý hình sự, như: Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, Nguyễn Thành Tài, Nguyễn Hữu Tín, Trần Vĩnh Tuyến, Nguyễn Văn Hiến, Văn Hữu Chiến, Trần Văn Minh, Nguyễn Văn Tình, Phan Văn Vĩnh, Nguyễn Thanh Hóa… Bài học từ những cá nhân sai phạm nêu trên chính là họ đã để cho chủ nghĩa cá nhân lấn lướt dẫn đến mù quáng. Sự sa ngã của họ không chỉ là nỗi đau cho bản thân, gia đình, mà còn làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng trong vai trò là chính đảng cầm quyền duy nhất ở nước ta. Để xảy ra những vụ việc như vậy còn do nguyên nhân đã được chỉ rõ trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XIII): Cơ chế kiểm soát quyền lực và chế tài xử lý vi phạm ở nhiều lĩnh vực chưa có hoặc có nhưng chưa cụ thể, hiệu quả thực thi thấp.…

Do vậy, điều quan trọng nhất lúc này là mỗi cán bộ, đảng viên phải tự tu dưỡng đạo đức, tạo sức đề kháng, ngăn chặn, vô hiệu hóa những “viên đạn bọc đường” trong chính công việc hằng ngày, bằng cách tuân thủ nghiêm quy trình công tác, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước có liên quan. Không chỉ bản thân làm tốt mà cần tuyên truyền, giáo dục cấp dưới, đồng nghiệp, đặc biệt là người thân trong gia đình làm theo để họ không trở thành “gót chân Asin”…

Cùng với tăng cường, siết chặt cơ chế kiểm soát quyền lực của Nhà nước để cán bộ các cấp “không thể tham nhũng”, “không dám tham nhũng”, mỗi cơ quan, đơn vị cần chủ động rà soát quy định, quy chế nội bộ để cán bộ, đảng viên khi nắm quyền trong tay phải nắm rõ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, không dám lạm quyền, lộng quyền, không để bị ngã gục trước cám dỗ. Những vị trí công tác “nhạy cảm” liên quan đến phê duyệt dự án, thuế, hải quan, quản lý tài sản công, quản lý tài chính… phải thường xuyên được sàng lọc, luân chuyển, tránh tình trạng cát cứ dẫn đến lạm dụng quyền, sai phạm.

Bên cạnh đó, việc đầu tư chiến lược và lâu dài cho công tác nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, chế độ đãi ngộ với đội ngũ cán bộ, đảng viên là hết sức cần thiết. Thực hiện tốt công tác này sẽ góp phần động viên, quan tâm và tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ tận tâm, tận lực cống hiến nhiều hơn và giữ vững sự liêm chính, không bị sa ngã trước “viên đạn bọc đường”.

MĐ.11

 

ĐẤU TRANH VỚI ÂM MƯU CHỐNG PHÁ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


Thời gian qua, các thế lực thù địch tìm cách đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác- Lê nin, chúng coi Hồ Chí Minh chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải là người cộng sản. Chúng cho rằng việc Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác-Lê nin vào hoàn cảnh Việt Nam là sai lầm. Chúng dựng chuyện, bôi nhọ về thân thế, đời tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh hòng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về thành tựu đổi mới đất nước, về mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Cần phải thấy rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học, bao gồm hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; là kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với thế giới quan, phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và với trí tuệ sắc sảo, khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa của dân tộc và của nhân loại để hình thành nên hệ thống tư tưởng của mình. Tư tưởng đó là sự thống nhất, quan hệ biện chứng với Chủ nghĩa Mác - Lê nin, cùng với Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn đuốc soi đường đưa cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Trong những năm qua, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều đó chứng minh rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thấm sâu vào phong trào cách mạng Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại, kiến tạo nên một thời đại mới cho dân tộc ta đó là thời đại Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành chân lý không thể phủ nhận, Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng sáng ngời của tinh thần đoàn kết quốc tế, đấu tranh không biết mệt mỏi cho hòa bình, tiến bộ của nhân loại; Người là hiện thân của chủ nghĩa nhân văn cao cả, cống hiến cả cuộc đời mình để đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho Nhân dân.

Với những cống hiến vĩ đại cho dân tộc và nhân loại, với tấm gương đạo đức sáng ngời, Hồ Chí Minh đã được cả dân tộc Việt Nam, cộng đồng quốc tế và nhân dân tiến bộ trên thế giới tôn vinh, ngưỡng mộ. Chính vì lẽ đó, những luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, bôi nhọ thân thế, sự nghiệp của Người chỉ là những luận điệu phi lịch sử, phản khoa học và vô giá trị mà thôi.

HĐ.11

VẠCH TRẦN LUẬN ĐIỆU LỪA BỊP “QUÂN ĐỘI PHẢI TRUNG LẬP VỀ CHÍNH TRỊ”


Đấu tranh vạch trần sự lừa bịp của luận điểm “Quân đội phải trung lập về chính trị” và tăng cường các biện pháp xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

 “Quân đội phải trung lập về chính trị” là luận điểm đã có từ lâu, mà các đảng chính trị đối lập ở những nước đi theo chế độ đa đảng thường sử dụng để hạn chế quân đội “can dự” vào những tranh giành chính trị của các đảng phái. Ngay từ năm 1905, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “... những câu nói của bọn tôi tớ của nền chuyên chế về tính trung lập của quân đội, về sự cần thiết phải giữ cho quân đội đứng ngoài chính trị v.v. là giả dối, rằng những lời nói đó không thể mong được binh lính đồng tình một chút nào”.

Trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, khi thấy rằng phương thức chống phá chủ nghĩa xã hội bằng biện pháp gây chiến tranh xâm lược không hiệu quả, chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh chống phá bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”. Một trong các thủ đoạn mà họ sử dụng là đưa khẩu hiệu “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị” vào các nước xã hội chủ nghĩa, nơi chỉ có một đảng (Đảng Cộng sản) lãnh đạo, nhằm thực hiện “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang cách mạng, mà thực chất là nhằm tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vô hiệu hóa vai trò của quân đội là công cụ bạo lực của Đảng, của Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thủ đoạn này đã được họ áp dụng thành công ở Liên Xô trước đây; khi những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội Liên Xô tự rời bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, mắc những sai lầm rất nghiêm trọng, như: tự xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội, làm cho Quân đội Liên Xô bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa.

Đối với nước ta, từ nhận định rằng, hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam còn nắm chắc quân đội, chưa thể xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, chưa thể xóa bỏ được chế độ xã hội chủ nghĩa, nên các thế lực thù địch với cách mạng nước ta ráo riết thực hiện chiêu bài “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị”. Họ hy vọng rằng, một khi quân đội đã bị mê hoặc bởi khẩu hiệu đó, đội ngũ cán bộ quân đội đã dao động, mất phương hướng chính trị, họ sẽ ra tay lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo đúng kịch bản “không đánh mà thắng”.

Để thực hiện mưu đồ đòi “quân đội phải trung lập về chính trị”, các thế lực thù địch sử dụng mọi biện pháp, cả về lý luận, tư tưởng lẫn hành động thực tiễn.

Trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng, họ thường lập luận rằng: quân đội là của nhà nước, nên chỉ phục tùng nhà nước, chứ không phục tùng và chịu sự lãnh đạo của bất cứ chính đảng nào; hoặc: hoạt động của quân đội chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân, nên chỉ phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào, v.v. Nghe thoáng qua, không ít người ngộ nhận sự có lý của lập luận này, mà không hiểu rằng: đây là thủ đoạn lừa bịp, nhằm chuyển lập trường chính trị của quân đội cách mạng sang lập trường của bọn cơ hội chính trị, của giai cấp tư sản.

Trong hành động thực tiễn, những người cổ xúy cho tư tưởng “quân đội phải trung lập về chính trị” yêu cầu một khi có biến động chính trị, thì quân đội hãy án binh, bất động, không đứng về phe nào. Đối với những nước đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa, chỉ có một Đảng Cộng sản lãnh đạo như nước ta, họ đòi xóa bỏ nguyên tắc “Đảng Cộng sản lãnh đạo quân đội”; hạ thấp, đi đến đòi xóa bỏ hoạt động công tác đảng, công tác chính trị cùng hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị..., từ đó mà vô hiệu hóa vai trò của quân đội trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng.

Đối với Việt Nam, để thực hiện mục tiêu nhất quán là xóa bỏ thành quả cách mạng và lái con đường phát triển của đất nước sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, trong nhiều năm qua, các thế lực thù địch đẩy mạnh các chiến dịch vận động đòi thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập và lôgic tất yếu của tiến trình đó, nếu được thực hiện, sẽ là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Họ công khai đòi bỏ quy định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; bỏ quy định “lực lượng vũ trang nhân dân phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam” đã được ghi trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lợi dụng tình cảm của nhân dân ta với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, họ cố tình lờ đi hoàn cảnh lịch sử của sự kiện ngày 26/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Trường Võ bị Lục quân Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1) lá cờ “Trung với nước, hiếu với dân”, để xuyên tạc tư tưởng nhất quán của Người về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, bằng lý lẽ: “Cụ Hồ không yêu cầu quân đội phải trung thành với Đảng” (!). Đáng tiếc rằng, một bộ phận nhân dân, kể cả một số cán bộ, đảng viên ta đã dao động trước những lý lẽ này.

Cần khẳng định ngay rằng, mục tiêu hướng tới của những thủ đoạn nói trên là thúc đẩy sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Quân đội, làm cho Quân đội nhân dân Việt Nam xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng; biến chất về chính trị, tiến tới vô hiệu hóa vai trò của Quân đội là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những thủ đoạn đó thật tinh vi và thâm hiểm, nhưng sai cả về lý luận và thực tiễn.

Thứ hai, quân đội bao giờ cũng mang bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức và nuôi dưỡng nó; bởi quân đội là một thành phần của nhà nước, là công cụ bạo lực vũ trang của nhà nước để bảo vệ thành quả mà lực lượng chính trị cầm quyền có được qua các cuộc đấu tranh giành quyền lực.

Với tư cách là một bộ phận của nhà nước, quân đội của bất cứ xã hội nào cũng đều phụ thuộc vào đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền; đồng thời, các lực lượng chính trị cầm quyền bao giờ cũng tìm mọi cách để nắm chắc quân đội thông qua nhiều biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chính sách. Do vậy, ngay từ khi xuất hiện, quân đội đã “thấm đẫm” thứ chính trị của nhà nước và giai cấp nắm giữ quyền lực trong xã hội; không có và không thể có thứ quân đội “trung lập về chính trị”, hay “đứng ngoài chính trị” như giai cấp tư sản thường tuyên truyền, nhằm che giấu bản chất giai cấp của quân đội các nước tư bản.

Xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, mà cốt lõi là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội ta là một bài học thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Lãnh tụ Hồ Chí Minh trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản ở một nước có nền kinh tế chậm phát triển. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã kiểm nghiệm và khẳng định tính đúng đắn của bài học đó. Ngay từ ngày đầu thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã được tổ chức theo mô hình có chi bộ Đảng lãnh đạo; bên cạnh người đội trưởng, có một cán bộ chính trị chuyên làm công tác chính trị theo đường lối của Đảng.

Đấu tranh vạch trần sự lừa bịp của luận điểm “Quân đội phải trung lập về chính trị” và tăng cường các biện pháp xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trước hết là sự nỗ lực của bản thân cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta./.

DM.11

TÍNH KHOA HỌC, TÍNH CÁCH MẠNG CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ


Sau sự kiện chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, có rất nhiều luận điệu xuyên tạc, bác bỏ nhiều vấn đề lý luận trong quan niệm duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, như lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhà nước và cách mạng xã hội... Những luận điệu này không có căn cứ khoa học, thiếu cơ sở thực tiễn nên cần phải phê phán, bác bỏ.

Có thể nói, C.Mác là người đầu tiên trong lịch sử triết học “phát hiện ra quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của lịch sử loài người”. V.I.Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”.

Khi nói về giá trị, tính khoa học và bản chất cách mạng của học thuyết Mác, V.I.Lênin đã khẳng định rằng, toàn bộ giá trị của học thuyết Mác là ở chỗ, lý luận đó về bản chất là một lý luận có tính chất phê phán và cách mạng. Bất cứ sự quan tâm nào về xã hội, lịch sử đều có thể tìm thấy trong học thuyết Mác những cơ sở khoa học cho lời giải đáp.

Trong các tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, “Sự khốn cùng của triết học”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, đặc biệt là bộ “Tư bản”, C.Mác xuất phát từ phương thức sản xuất để nghiên cứu sự vận động, biến đổi, phát triển và quy luật của lịch sử. Ở đó, phương thức sản xuất được hiểu là sự vận động của lực lượng sản xuất và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Đó còn là sự liên kết các lĩnh vực vào một thể thống nhất, tạo nên tính toàn vẹn và tính cụ thể đặc trưng của một xã hội.

Nội dung này được thể hiện tập trung trong học thuyết hình thái kinh tế-xã hội. Bằng phạm trù hình thái kinh tế-xã hội, C.Mác đã thực hiện sự phân kỳ lịch sử qua những giai đoạn phát triển khác nhau với những đặc trưng cơ bản, thể hiện tính gián đoạn trong sự bao hàm, sự thay thế nhau một cách tất yếu, hợp quy luật các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người.

Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội lần đầu tiên cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho việc phân kỳ lịch sử, giúp con người hiểu được logic khách quan của quá trình tiến hóa xã hội. Nó vạch ra sự thống nhất của lịch sử trong cái muôn vẻ của các sự kiện ở những quốc gia, dân tộc khác nhau trong các thời kỳ khác nhau. Bằng việc phát hiện ra những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác đã chỉ ra cho giai cấp vô sản và nhân loại tiến bộ toàn thế giới những con đường và biện pháp hiện thực để tự giải phóng khỏi ách áp bức về mặt xã hội và tạo ra những điều kiện, tiền đề cho một cuộc sống thật sự mang tính người trong xã hội cộng sản.

Mục đích của quan niệm duy vật về lịch sử là chứng minh tính tất yếu ra đời của chủ nghĩa cộng sản. Với nhãn quan của một nhà triết học, chính trị với tinh thần nhân đạo, yêu thương con người và yêu tự do vô hạn, ngay trong những tác phẩm đầu tiên khi xây dựng Chủ nghĩa Mác, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã đưa ra tư tưởng về xây dựng một thế giới cho sự phát triển của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn thế giới. Thông qua sự phân tích tất yếu kinh tế, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã làm rõ cơ sở thực sự của các chế độ xã hội, thể chế chính trị và tính chất bất công về mặt xã hội nảy sinh từ tất yếu kinh tế và những phương thức để giải quyết các mâu thuẫn xã hội thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của lịch sử.

Có thể khẳng định, thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Trong đó, đấu tranh giai cấp vẫn còn tồn tại, thậm chí ở nhiều khía cạnh còn gay gắt và phức tạp hơn. Hiện nay, “trật tự thế giới mới” hình thành ngày càng bộc lộ bản chất giai cấp của chủ nghĩa tư bản. Đó là trật tự bao hàm bạo lực, chiến tranh, áp bức, cường quyền, can thiệp, khủng bố. Cho dù chủ nghĩa tư bản làm dịu đi những mâu thuẫn trong lòng nó và chưa cạn kiệt khả năng phát triển, nhưng có thể khẳng định rằng tự bản thân nó đang tạo ra những điều kiện để phủ định chính nó. Điều đó vẫn làm cho cuộc đấu tranh vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội càng trở nên khó khăn, phức tạp hơn, nhất là đối với những nước đang đi theo con đường xây dựng CNXH.

Đối với vấn đề nhà nước, các nhà tư tưởng tư sản xuyên tạc một cách tinh vi hơn, che đậy bản chất nhà nước một cách kín đáo hơn. Họ khẳng định nhà nước tư sản hiện đại là nhà nước dân chủ nhất, ưu việt nhất, là “nhà nước phúc lợi chung”, bảo đảm phúc lợi cho tất cả mọi người dân... Đi đôi với việc đề cao nhà nước tư sản, họ không ngừng phủ nhận nhà nước xã hội chủ nghĩa và phủ nhận, xuyên tạc bản chất dân chủ và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng đó chỉ là sự ngụy biện.

Thực tế đến nay, nhiều nước đang xây dựng thành công CNXH trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Những thành tựu to lớn đã đạt được ở các nước xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, Trung Quốc, Cuba... chứng minh rằng, học thuyết về CNXH là học thuyết đúng đắn; quan niệm duy vật về lịch sử là quan điểm khoa học và cách mạng.

Mặc dù vậy, như V.I.Lênin đã nhắc nhở những người cộng sản rằng: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(4). Lời căn dặn của V.I.Lênin đến nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự.

Ngày nay, trước những thắng lợi to lớn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, “những kẻ “đói kém” về mặt lý luận, nhưng lại “giàu có” về các thủ đoạn” vẫn tiếp tục chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, hòng mưu toan làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa, phá hoại thành quả cách mạng. Do vậy, để củng cố nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng thì điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là những người mácxít phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường kiên định, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù; không được dao động, mất lập trường.

Mặt khác, phải có khả năng nhận thức đúng những thay đổi của thời đại để nhận diện được các quan điểm sai trái, thù địch và có những thay đổi trong sách lược phù hợp với thực tiễn. Cùng với đó, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận Mác-Lênin về CNXH khoa học, vì đây là một trong những cách bảo vệ tốt nhất học thuyết khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và phong trào cộng sản trên toàn thế giới.

LĐ.11

PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI PHỦ NHẬN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong ba thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn xuyên tạc, phát tán các luận điệu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Cách mạng Tháng Tám 1945, nhằm gieo rắc sự hoài nghi, từng bước phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng. Đây là một luận điệu hiểm độc, cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Các thế lực thù địch dùng nhiều luận điệu, chiêu bài, sử dụng phương tiện, diễn đàn, nhất là mạng xã hội…để ngụy tạo sự kiện, xuyên tạc; nhân danh “khoa học”, hô hào “trả lại sự thật lịch sử”, trong đó tập trung chủ yếu vào những luận điệu như: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, “không phải là cuộc cách mạng” mà chỉ là cuộc “đảo chính”; Việt Minh, Cộng sản “cướp công” của Chính quyền Bảo Đại – Trần Trọng Kim; Bảo Đại đã “tuyên bố độc lập từ ngày 11/3/1945”; Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 “hoàn toàn tự phát…" Hoặc chúng xuyên tạc Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công khi đã có một “khoảng trống quyền lực”. Đảng Cộng sản, Việt Minh, giành chính quyền là “ăn may”....

Các luận điệu trên đều hướng đến mục tiêu: phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Cách mạng Tháng Tám năm 1945, từ đó, tiến tới bẻ cong sự thật, bôi đen chân lý lịch sử, gây dao động, hoài nghi đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ cơ sở lịch sử về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc Việt Nam.

Thực tế lịch sử trước, trong và sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với những thắng lợi to lớn của dân tộc Việt Nam gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng đã bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch.

Trước tiên ta thấy, Cách mạng tháng Tám năm 1945 là kết quả của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng thể hiện ở đường lối đấu tranh giành độc lập dân tộc, sự chỉ đạo tài tình, kiên quyết và sự phấn đấu hy sinh của biết bao cán bộ, đảng viên.

Bên cạnh đó, Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công không phải do “ăn may” như các thế lực thù địch xuyên tạc mà hoàn toàn do sự lãnh đạo chủ động sáng tạo của Đảng, tinh thần yêu nước, đoàn kết của nhân dân. Về thời cơ: Đó là tình hình quốc tế chuyển biến mau lẹ, lực lượng Đồng Minh chĩa mũi nhọn vào phát xít Nhật; quân đội Liên Xô tấn công, đập tan quân Nhật ở Đông Bắc Á; quân Mỹ tấn công Nhật Bản, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng ngày 15-8-1945. Quân Nhật ở Đông Dương hoang mang, dao động. Về nguy cơ: Lực lượng quân Nhật ở Đông Dương tuy có hoang mang, dao động nhưng không có dấu hiệu rệu rã; quân Nhật vẫn tuyên bố “có trách nhiệm bảo vệ an ninh” cho đến khi quân đồng minh vào... Bên cạnh đó, cách mạng Việt Nam còn đối mặt nhiều thách thức, quân Tưởng (đi theo là các đảng phái phản động Việt Quốc, Việt Cách) và quân Anh mang danh nghĩa Đồng Minh tiến vào Đông Dương, quân Pháp đã ráo riết trở lại Đông Dương để nhằm khôi phục lại quyền thống trị đã mất về tay Nhật. Do đó, hoàn toàn không có một “khoảng trống quyền lực” nào ở Việt Nam vào Tháng Tám năm 1945.

Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã nhanh chóng, quyết đoán, sáng suốt đưa ra những quyết định phát động Tổng khởi nghĩa đúng đắn, kịp thời giành chính quyền thắng lợi. Hiện thực lịch sử đó đã bác bỏ luận điệu xuyên tác về sự “ăn may” của Cộng sản và Việt Minh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám có giá trị to lớn đối với dân tộc Việt Nam đã đập tan xiềng xích, kìm kẹp của chế độ thực dân, phong kiến, trở thành quốc gia độc lập, có chủ quyền, chế độ dân chủ cộng hòa được thiết lập; nhân dân từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ vận mệnh của mình. Có được kết quả vĩ đại ấy trước hết và chủ yếu là do vai trò lãnh đạo của Đảng, đó là điều không thể phủ nhận trong trang vàng lịch sử Việt Nam.

TN.11

CHỦ ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH, GÓP PHẦN BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM, TỪ XA


Bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt để triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển thành: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”.

Trước hết ta thấy, quan điểm BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là hoàn toàn đúng đắn, xuất phát từ bài học kinh nghiệm được đúc kết từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đồng thời thể hiện bước phát triển quan trọng từ thực tiễn và lý luận của Đảng về quốc phòng, an ninh (QPAN), đối tác, đối tượng, về BVTQ trong tình hình mới. Từ xưa đến nay, đất nước ta đã áp dụng nhiều biện pháp, như: Tích cực hoạt động bang giao, giữ hòa khí với các nước láng giềng, tránh chiến tranh khi còn có thể; chăm lo xây dựng, củng cố lực lượng quân đội, tiềm lực quốc gia; giữ vững biên giới; thực hiện kế sách khoan thư sức dân... Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, Việt Nam cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”.

Thực tế cho thấy, BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là tư tưởng chỉ đạo, hành động xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Kế sách này được vận dụng sáng tạo, linh hoạt thông qua việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và "thế trận lòng dân"; thực hiện tốt chủ trương kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với QPAN trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội... Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động không ngừng chống phá kế sách BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Vì vậy, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra nhiều giải pháp để đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá này. Đặc biệt, ngày 22-10-2018 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Tiếp đó, ngày 4-6-2019, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 53-KL/TW về việc chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn, xử lý, gỡ bỏ, triệt phá tin giả, thông tin sai sự thật, xấu độc trên internet, mạng xã hội. Hai văn bản này tạo khuôn khổ phối hợp đồng bộ, có hiệu quả giữa các cơ quan làm nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng.

Việc đặt ra yêu cầu chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, góp phần BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy xuất phát từ đánh giá, nhận định thấu đáo của Đảng ta về tình hình trong nước, những diễn biến mới và thay đổi nhanh chóng trên thế giới; phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch.

MĐ.11

 

NGĂN CHẶN TÀ ĐẠO BIẾN TƯỚNG TRÊN MẠNG


Thời gian qua, một số đối tượng xấu gia tăng hành vi tuyên truyền tà đạo, lôi kéo người dân tham gia hoạt động tâm linh mờ ám, phi pháp trên không gian mạng. Nếu không tỉnh táo, cảnh giác, người dân sẽ dễ bị lôi kéo tham gia vào các hoạt động tôn giáo trái pháp luật và có thể gánh chịu những hậu quả khó lường.

Ngày 13/5/2022, Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Công an tỉnh Lâm Đồng đã xử phạt Nguyễn Thị Thương (sinh năm 1975) và ông Nguyễn Chu Truyền (sinh năm 1948) trú tại phường 1, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng về hành vi phát tán thông tin sai sự thật trên không gian mạng. Hai đối tượng trên là thành viên cốt cán, thành lập, điều hành nhóm tự xưng “Trừ quỷ Bảo Lộc”. Điều đáng nói là trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, khó lường, nhóm người này đã lên mạng xã hội rêu rao rằng: “Dịch Covid-19 này không phải là một cơn dịch thiên nhiên là do ma quỷ xen vào…Việc tiêm vắc-xin phòng Covid-19 là để đưa các mầm bệnh khác vào cơ thể, làm phân hủy hệ gene của con người…”. Không chỉ tuyên truyền sai sự thật về dịch bệnh, thời điểm nhiều địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống Covid-19, nhóm “Trừ quỷ Bảo Lộc” đã nhận chữa bệnh cho cả những người mắc Covid-19 bằng cái được gọi là “nguồn thánh thiêng” nhưng thực chất là nước giếng đóng chai, và tuyên truyền rằng đó là “nước Chúa” cho xuống để rửa sạch và tiêu diệt vi-rút trong không khí. Đồng thời các thành viên của nhóm thường xuyên đăng tải, tán phát nhiều thông tin, video trên mạng xã hội YouTube, Facebook… nhằm lôi kéo nhiều người tham gia. Đến nay nhóm đưa lên mạng xã hội hàng trăm video clip với nội dung không đúng sự thật để tuyên truyền “giáo lý”, “chữa bệnh online”,…

Lợi dụng bối cảnh dịch bệnh kéo dài khiến nhiều người phải làm việc chủ yếu qua mạng internet, các tà đạo biến tướng nhanh chóng khuếch trương thanh thế, thực hiện mọi chiêu thức thu hút “con nhang đệ tử”. Họ thường xuyên tổ chức các buổi livestream, hội thảo trực tuyến để tuyên truyền giáo lý với những lời lẽ đường mật khiến nhiều người dễ bị mê hoặc, dẫn dụ. Chưa kể với lực lượng “quân xanh” đông đảo tạo hiệu ứng đám đông, khiến những người mới tham gia dễ bị tác động tâm lý, vội vàng tin và nghe theo những gì chúng tuyên truyền.

Từ các buổi sinh hoạt mở, miễn phí để chiêu mộ thành viên, các tổ chức sinh hoạt tôn giáo bất hợp pháp rút dần vào hoạt động bí mật, với các nhóm đã được chúng kiểm soát chặt chẽ. Người tham gia phải cam kết tuyệt đối trung thành, có trách nhiệm đóng góp kinh phí dưới danh nghĩa làm từ thiện, mua tài liệu, thực phẩm dưỡng sinh,… Các hoạt động tà đạo biến tướng trên mạng không chỉ gây thiệt hại về kinh tế đối với người nhẹ dạ tham gia, mà còn tuyên truyền luận điệu phản khoa học, xúc phạm đến các tôn giáo chân chính, dẫn dắt khiến người tham gia u mê, thậm chí dẫn đến các hành vi đi ngược với đạo đức, thuần phong mỹ tục như: đập bỏ bát hương, tự cho mình được chúa trời sinh ra nên đối xử tệ bạc với cha mẹ, có bệnh nặng không chữa trị mà chỉ tin, nghe theo việc cúng bái phản khoa học…

Nguy hiểm hơn, một số tổ chức phản động lợi dụng sự tự do của mạng xã hội, đã lập ra các hội nhóm mang danh nghĩa sinh hoạt tôn giáo nhưng thực chất là tuyên truyền gây chia rẽ vùng miền, công kích, xuyên tạc chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, chống phá chế độ.

Việt Nam luôn coi trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mỗi người dân; nỗ lực bảo đảm các tôn giáo được hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật. Các cá nhân có quyền theo hoặc không theo tôn giáo; không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng; hoạt động của các tổ chức tôn giáo được bảo hộ bằng pháp luật. Đồng thời pháp luật Việt Nam cũng quy định không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Hiện nay chính quyền các cấp cũng như cơ quan chức năng có liên quan đang tích cực đẩy mạnh tuyên truyền cộng đồng thực hành tín ngưỡng, tôn giáo đúng pháp luật; thường xuyên rà soát, phát hiện, xử lý nghiêm hoạt động tôn giáo trái phép, gây mất an ninh trật tự xã hội, đặc biệt là trên không gian mạng. Tuy nhiên, công tác này chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi có sự hợp tác của cộng đồng. Bởi vậy về phía người dân, để thực hành tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh, trong khuôn khổ pháp luật, nên lựa chọn tham gia các tôn giáo, tín ngưỡng hợp pháp, thận trọng, tỉnh táo trước hiện tượng tôn giáo mới, không để bị dụ dỗ, lôi kéo vào các hoạt động tâm linh mờ ám, phi pháp, nhất là khi tham gia mạng xã hội.

Các cá nhân cần tạo lập đời sống văn hóa lành mạnh, sống hướng thiện, nhận thức đúng đắn về các sinh hoạt tâm linh, tôn giáo, cộng đồng tăng cường kết nối, tương trợ nhau,… nhờ vậy sẽ hình thành khả năng tự đề kháng trước hoạt động núp bóng tôn giáo, phản văn hóa, đi ngược thuần phong mỹ tục cũng như quy định của pháp luật.

DM.11

CHIÊU TRÒ ĐÒI "TỰ TRỊ DÂN TỘC" - SỰ MƠ MỘNG HÃO HUYỀN


Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với nước ta, hoạt động kích động người dân tộc thiểu số (DTTS) đòi ly khai tự trị dân tộc luôn là một trong những nội dung chủ đạo được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định an ninh chính trị ở các vùng DTTS...

Qua theo dõi có thể thấy, thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã dùng nhiều thủ đoạn, phương thức để tiến hành hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc chống phá nước ta. Trong đó, chúng tập trung vào một số phương thức, thủ đoạn sau:

Một là, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các vấn đề về nguồn gốc lịch sử tộc người, đất đai, lợi dụng những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo phức tạp, giải quyết các “điểm nóng” tại địa phương; những tác động của mặt trái kinh tế thị trường... để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, tìm cách bôi đen cán bộ lãnh đạo để kích động tư tưởng ly khai, dân tộc hẹp hòi, tâm lý mặc cảm, kỳ thị dân tộc và cho rằng, chỉ có thành lập “nhà nước mới, quốc gia mới riêng thì mới giàu có, văn minh, phát triển” để lôi kéo, vận động đồng bào DTTS chống lại chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; tham gia biểu tình, bạo loạn, phá hoại an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. 

Hai là, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng chiêu bài “tôn giáo hóa dân tộc”, thông qua tôn giáo thâm nhập, gây ảnh hưởng, tập hợp lực lượng là người DTTS, tiến tới hình thành tổ chức phản động trên địa bàn. Chúng lợi dụng các tôn giáo ở vùng DTTS hoặc lập ra một số hình thức "tôn giáo riêng" cho người DTTS như: "Tin lành Đề ga" ở Tây Nguyên để hình thành “Nhà nước Đề ga độc lập”; lợi dụng "Tin lành của người Mông" để thành lập “Nhà nước Mông” ở Tây Bắc; lợi dụng "Phật giáo Nam Tông Khmer" để thành lập “Vương quốc Chăm Pa” ở vùng DTTS Nam Trung Bộ, “Nhà nước Khmer Kampuchea Krom” ở Tây Nam Bộ... Chúng tập trung móc nối, lôi kéo người có uy tín trong đồng bào DTTS, học sinh, sinh viên, thanh niên DTTS, đối tượng cầm đầu, cốt cán các “tà đạo, đạo lạ”, “hiện tượng tôn giáo mới” trong vùng DTTS...

Thế lực thù địch đặc biệt triệt để lợi dụng chiêu bài “đấu tranh đòi quyền lợi cho người DTTS, đòi ly khai, tự trị” để thu hút, lôi kéo người tham gia tổ chức phản động. Ở bên ngoài, các thế lực thù địch xây dựng, phát triển lực lượng chống đối; nuôi dưỡng, hậu thuẫn, tổ chức các lớp đào tạo, huấn luyện kỹ năng hoạt động và chỉ đạo số này móc nối, tác động, xâm nhập về nước hoạt động xâm phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Ba là, núp dưới chiêu bài hoạt động “nhân đạo”, “từ thiện” của các tổ chức phi chính phủ để lôi kéo, kích động người DTTS, người dân ở vùng sâu, vùng xa chống phá Nhà nước ta. Đây là một thủ đoạn mới hết sức tinh vi mà các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng để tác động, mua chuộc đồng bào DTTS; dùng thần quyền, giáo lý để nắm và khống chế người DTTS, chi phối các địa bàn; qua đó hòng kích động, lôi kéo người DTTS tham gia hoạt động đòi ly khai, tự trị, thành lập “nhà nước riêng”; gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Đặc biệt, thông qua hoạt động “nhân đạo”, “từ thiện”, kẻ địch còn tìm cách thâm nhập vào các địa bàn chiến lược, nhất là các địa bàn vùng sâu, vùng xa để thu thập tình hình, cung cấp cho các tổ chức phản động lưu vong bên ngoài báo cáo xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Bốn là, chúng tìm cách đánh tráo và đồng nhất khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của quốc gia-dân tộc với quyền của các DTTS để tuyên truyền, xuyên tạc nhằm làm cho một số đồng bào các dân tộc ngộ nhận rằng, “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của riêng các DTTS, từ đó, chúng tìm cách kích động, lôi kéo đồng bào dân tộc đòi thành lập nhà nước riêng, phá hoại khối đại đoàn kết của dân tộc như: “Nhà nước Tin lành Đề ga” ở Tây Nguyên, “Vương quốc Chăm Pa” ở Tây Nam Bộ, “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc... Lợi dụng “quyền dân tộc tự quyết” làm điều kiện trong quan hệ ngoại giao với nước ta; gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với việc đòi Nhà nước Việt Nam trao “quyền tự quyết, tự quản” cho các DTTS ở trong nước, qua đó hòng tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ nước ta.

Năm là, tìm mọi cách để tác động quốc hội các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo... hoặc tổ chức nhiều cuộc điều trần, hội thảo, họp báo nhằm xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền ở các vùng DTTS trong nước. Thông qua đó, họ tìm cách vận động các nước, các chính khách, người Việt ở nước ngoài tài trợ vật chất, tiền, phương tiện để tiến hành các hoạt động đòi ly khai, tự trị dân tộc đối với nước ta. Họ còn tăng cường “quốc tế hóa” vấn đề “quyền dân tộc tự quyết” để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống đối Nhà nước ta từ bên trong. Bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong như: "Hội người Mông thế giới", "Hội những người miền núi", "Nhà nước Đề ga độc lập"... tăng cường tổ chức biểu tình ủng hộ các đối tượng trong nước hoạt động tích cực, quyết liệt hơn.

Thời gian qua, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những khó khăn trong cuộc sống của đồng bào DTTS để tổ chức truyền đạo trái pháp luật, đội lốt tôn giáo hoạt động chính trị, móc nối xây dựng cơ sở. Đi liền với việc truyền bá các tà đạo, phát triển cái gọi là “hiện tượng tôn giáo mới”; chúng khuyến khích đồng bào các DTTS duy trì tập tục lạc hậu, thiếu khoa học, cổ vũ cho lối sống thực dụng trong thanh niên, thiếu niên, từng bước làm băng hoại đạo đức, bản sắc văn hóa dân tộc. Họ cũng tận dụng thế mạnh các phương tiện thông tin đại chúng trong đó tập trung sử dụng internet, đài phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc; in ấn tài liệu, văn hóa phẩm, đặc biệt là sử dụng phương pháp tuyên truyền miệng, rỉ tai để kích động hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc đối với đồng bào các DTTS ở trong nước. 

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS ở nước ta không ngừng được cải thiện, nâng lên, các quyền cơ bản của đồng bào DTTS ngày càng được bảo đảm. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề dân tộc trong thời gian qua còn có những hạn chế nhất định. Đó là đời sống văn hóa-xã hội của đồng bào DTTS tuy đã có những tiến bộ đáng kể, song mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của người dân còn thấp, vẫn còn một bộ phận đồng bào DTTS có cuộc sống khó khăn. Hệ thống chính trị cơ sở ở một số vùng DTTS còn yếu; công tác quản lý xã hội còn có sơ hở, chưa sát dân, chưa nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của đồng bào, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới. Công tác nắm tình hình có lúc, có nơi còn yếu, chưa phát hiện kịp thời các vụ việc phức tạp xảy ra, dẫn đến việc giải quyết còn lúng túng, thụ động; chính quyền ở một số địa phương còn sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhất là các chính sách về dân tộc, tôn giáo để các đối tượng và các thế lực bên ngoài lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá ta.

Từ thực tế trên, trong thời gian tới, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc hòng “diễn biến hòa bình” đối với nước ta. Do vậy, công tác phòng ngừa, đấu tranh cần có sự tham gia của cả hệ thống chính trị trong việc triển khai thực hiện đồng bộ nhiều nhóm giải pháp trên nhiều lĩnh vực xã hội. Trong đó cần phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở.

ĐQ.11

 

TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ CHÍNH TRỊ NỘI BỘ, YÊU CẦU VÀ NHIỆM VỤ TRONG TÌNH HÌNH MỚI


Bảo vệ chính trị nội bộ là một trong những nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; có ý nghĩa sống còn đối với sinh mệnh của Đảng, sự sống còn của chế độ và lợi ích quốc gia-dân tộc.

Đảng ta xác định: Bảo vệ chính trị nội bộ chính là bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo vệ đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, bảo đảm cho cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Bảo vệ chính trị nội bộ luôn là yêu cầu khách quan, nhiệm vụ cần kíp, cấp bách hiện nay, bởi vì: Bảo vệ chính trị nội bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là mỗi khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, Đảng ta đều đề ra chủ trương, biện pháp bảo vệ chính trị nội bộ cho phù hợp với tình hình, yêu cầu nhiệm vụ nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, Nhà nước và thành quả cách mạng; phê phán những quan điểm sai trái, thù địch, phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội.

Trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là tác động, ảnh hưởng tiêu cực của cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, điều đó đặt ra nhiều vấn đề mới cho công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới. Do vậy, để làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ cần thực hiện tốt một số nội dung sau đây:

Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai đồng bộ, toàn diện các giải pháp, biện pháp cụ thể, khả thi để nâng cao hơn nữa trình độ nhận thức, hiểu biết về vị trí, vai trò, nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ của công tác bảo vệ chính trị nội bộ cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy.

Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Ba là, chấp hành nghiêm và thực hiện đầy đủ, hiệu quả các quy định của Đảng, Nhà nước, quân đội về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác cán bộ, nhất là các quy định về bảo mật, không để lộ, lọt, mất thông tin; không viết bài, đưa tin, phát ngôn sai quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây dư luận xấu trong xã hội và trong quân đội. Thực hiện tốt các phương châm trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ nhằm không bỏ sót những người có năng lực, trình độ trong quá trình thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Bốn là, thường xuyên thực hiện tốt công tác nắm tình hình, rà soát chính trị nội bộ. Kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp sử dụng, quản lý cán bộ, đảng viên phù hợp đối với những trường hợp có vấn đề chính trị. Thực hiện tốt hơn nữa việc kê khai bổ sung lý lịch đảng viên, kiểm tra thẻ đảng, hộ chiếu, các giấy tờ liên quan đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ; kê khai các hoạt động đi ra nước ngoài, quan hệ với nước ngoài của cán bộ, đảng viên để kịp thời phát hiện vi phạm và uốn nắn.

Có thể nói, bảo vệ chính trị nội bộ là nội dung hết sức quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị. Với sự quyết tâm cao, công tác bảo vệ chính trị nội bộ sẽ tiếp tục đạt được những kết quả tốt góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

TA.11

Đấu tranh với những quan điểm thù địch nhằm tấn công vào các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta


Từ trước tới nay, thái độ, hành vi ghen ghét, đố kỵ, xuyên tạc các đồng chí lãnh đạo, nguyên là lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta diễn ra không hệ mới và một khi những kẻ phản bội, bọn cơ hội hính trị trong và ngoài nước còn chưa đạt được mục tiêu chống phá, thì chúng còn tiếp tục sử dụng những chiêu trò bỉ ổi như thế này để chống phá, gây hoang mang dư luận xã hội, nhất là với những tầng lớp nhân dân, các đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa (mặt bằng nhận thức, cập nhật, hiểu biết các nội dung thông tin về tình hình hoạt động, phát triển xã hội của đất nước xã hội của nhân dân còn mức độ)

Loại quan điểm này đã xuyên tạc, bôi đen lý lịch, đời tư của một số đồng chí lão thành cách mạng; đổi trắng thay đen, tung hỏa mù gây nghi ngờ trong dư luận về phẩm chất đạo đức, năng lực và lý lịch gia đình; gây chia rẽ nội bộ trong Đảng. Đặc biệt, loại quan điểm này hay tung hỏa mù làm cho thế hệ trẻ ít hiểu biết và đông đảo quần chúng nhân dân không có thông tin, hiền lành, chất phác dễ tin và dễ bị lừa bởi thông tin mập mờ không rõ. Mục đích của loại quan điểm này là gây nghi ngờ trong Nhân dân về uy tín của cá nhân các đồng chí lãnh đạo. Từ hạ thấp uy tín cá nhân một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước để hạ uy tín của Đảng.

 Loại quan điểm này thường lợi dụng công nghệ thông tin, các trang mạng xã hội tung tin giả, làm nhiễu thông tin. Do vậy, yêu cầu đặt ra các cơ quan chức năng chuyên trách từ trung ưng tới các đại phương cần thường xuyên làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến đầy đủ các thông tin chính thống để nhân dân hiểu rỗ; đồng thời các cán bộ, đảng viên chúng ta phải rất thận trọng khi tham gia các trang mạng xã hội, không vội hùa theo những thông tin trên mạng xã hội khi chưa được kiểm chứng, xác thực.

                                                                                             H.H.11

 

ĐA ĐẢNG THÌ CÓ DÂN CHỦ, MỘT ĐẢNG THÌ MẤT DÂN CHỦ - THỰC RA LÀ MỘT TRÒ “LẬP LỜ ĐÁNH LẬN CON ĐEN”


Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng cả trong thời kỳ giành, giữ chính quyền và công cuộc xây dựng, phát triển Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Nhận thức rõ vấn đề đó, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ chính trị tại Việt Nam, hướng Việt nam đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, các thế lực thù địch chú trọng tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Bên cạnh những hoạt động như tác động, chuyển hóa; thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ Đảng thì một mũi tấn công trọng yếu, thường xuyên được các thế lực thù địch tiến hành thời gian vừa qua là đẩy mạnh hoạt động phá hoại tư tưởng với nhiều luận điệu “tấn công trực diện” vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Thông qua các hoạt động phá hoại tư tưởng để tác động nhằm thay đổi nhận thức, niềm tin của các tầng lớp nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào tính tất yếu của sự ra đời và lãnh đạo cách mạng của Đảng, từ đó lôi kéo các tầng lớp nhân dân vào con đường chống đối lại Đảng, hình thành nên các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập tại Việt Nam, tiến tới thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng. Các thế lực thù địch ngày càng tung ra hàng trăm, hàng nghìn các luận điệu khác nhau tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Do tác động từ hoạt động phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch, cộng với thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không tích cực học tập, quán triệt chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như nhận thức chính trị còn non kém nên trong nội bộ Đảng cũng đã xuất hiện một số cán bộ, đảng viên “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị. Đáng chú ý còn có một số người tỏ ra đồng tình, ủng hộ, thậm chí là cổ súy cho một luận điểm phá hoại tư tưởng rất phổ biến, đó là chỉ thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì Việt Nam mới có dân chủ, xã hội Việt Nam mới có thể phát triển sánh kịp với các quốc gia khác trên thế giới. Và ngược lại, nếu vẫn duy trì chế độ một đảng thì sẽ đồng nghĩa với độc tài, sẽ cản trở quá trình phát triển phát triển của đất nước.

          Đây là một luận điệu hết sức nguy hiểm, bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ và phát triển. Những người có nhận thức chính trị không vững vàng có thể đễ dàng bị đánh lừa bởi luận điệu này, từ đó cổ súy cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại Việt Nam. Vì vậy, việc nhận diện đầy đủ và đấu tranh phản bác, thuyết phục, vạch rõ những điểm giả dối, phản cách mạng, phản khoa học trong luận điệu “đa nguyên, đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển” là vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của chế độ hiện nay. Vì:

          Một là, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là nguyện vọng của toàn thể nhân dân; giải quyết được cuộc khủng khoảng về đường lối giải phóng dân tộc. Nhiều phong trào yêu nước đã xuất hiện như phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, Yên Bái nhưng lần lượt thất bại, rơi vào bế tắc. Trong bới cảnh đó, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin và chính Người đã có công truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, hợp nhất ba tổ chức đảng thành một tổ chức thống nhất để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.

          Hai là, Đảng Cộng sản đủ khả năng lãnh đạo để đưa đất nước phát triển, không cần thiết phải thực hiện đa nguyên, đa đảng. Điều này đã được lịch sử chứng minh. Năm 1945, chỉ 15 năm sau ngày thành lập với chỉ khoảng 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo toàn thể nhân dân làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám lịch sử, lật đổ ách áp bức của thực dân, phong kiến, lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ Công hòa, đưa nhân dân Việt Nam bước vào kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập, tự do. Tiếp sau đó, Đảng lại phải lãnh đạo nhân dân làm nên hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, làm nên những chiến thắng vang dội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của đất nước…

          Ba là, tiêu chí cao nhất của hoạt động chính trị là ổn định xã hội bền vững và tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội được bảo đảm, một đảng hay đa đảng, đa nguyên hay không đa nguyên cũng đều phải vì vấn đề cốt lõi này.

          Bốn là, dân chủ, phát triển không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng và thực hiện đa nguyên, đa đảng không đồng nghĩa với sẽ có dân chủ và phát triển.

          Vậy về mặt thực tiễn, thực hiện đa nguyên, đa đảng không đồng nghĩa với việc sẽ có dân chủ, không đồng nghĩa với việc sẽ đưa đất nước phát triển. Thực tiễn nhiều nước đã chứng minh rằng, có những nước đa đảng nhưng vẫn thuộc loại nghèo nhất trên thế giới. Tuy nhiên, cũng có những nước chỉ có một đảng lãnh đạo nhưng vẫn là một nước rất phát triển với đời sống nhân dân sung túc. Điều đó có nghĩa là đa nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho sự phát triển, thực hiện đa đảng không đồng nghĩa với việc đất nước sẽ phát triển. Vấn đề quan trọng nằm ở chỗ không phải là đa đảng hay một đảng lãnh đạo mà quan trọng nhất là đường lối lãnh đạo đúng đắn của đảng cầm quyền./.

LĐ.11

 

NHẬN DIỆN NHỮNG “CON RỐI” LƯU VONG CHỐNG PHÁ ĐẤT NƯỚC


Thời gian gần đây, một số đối tượng là công dân Việt nhưng vì quyền lợi vị kỷ, bị kẻ xấu, các tổ chức phản động lôi kéo dẫn đến bất chấp đạo lý, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bất chấp pháp luật, sử dụng không gian mạng phát tán nhiều thông tin sai lệch, công khai công kích, chống phá Việt Nam, tiếp tay cho kẻ xấu gây tâm lý hoang mang, ngờ vực, chia rẽ nội bộ, làm hại đất nước.

Lê Văn Thương - từ kẻ vô kỷ luật đến con đường chống phá đất nước

Lê Văn Thương, sinh năm 1988 tại vùng đất Quảng Ngãi giàu truyền thống cách mạng với biết bao tấm gương hy sinh vì đất nước. Là người từng có thời gian phục vụ trong quân ngũ, được quan tâm tạo điều kiện đào tạo thành sỹ quan nhưng do không chịu rèn luyện, tu dưỡng phấn đấu trở thành người có ích cho đất nước, cho quân đội và gia đình mà sa ngã, trượt dài trên con đường tội lỗi. Sau nhiều lần vi phạm kỷ luật, mặc dù đã được động viên, giáo dục, Thương vẫn tính nào tật ấy, do đó đã bị kỷ luật và được giải quyết cho xuất ngũ.

Thiết tưởng, sau khi trở về địa phương, Thương sẽ vượt qua lầm lỗi, chí thú làm ăn chăm lo cho gia đình, trở thành công dân tốt, nhưng y lại tiếp tục trượt dài, bộc lộ bản chất của một kẻ phá hoại, bắt tay với các đối tượng xấu có nhiều hoạt động chống phá đất nước và tuyên bố “tự nguyện ra quân và rời bỏ Đảng” để thành lập lực lượng hòng thay đổi chế độ.

Trước những hoạt động chống phá đất nước, có hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, Lê Văn Thương đã bị khởi tố về hành vi hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, đồng thời đã bị truy nã sau khi bỏ trốn khỏi địa phương vào năm 2018. Các cơ quan chức năng đã nhiều lần có văn bản gửi gia đình, vận động, kêu gọi Thương ra đầu thú để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Biết không thể có nơi dung thân ở trong nước, Lê Văn Thương đã tìm cách đào tẩu ra nước ngoài. Để được các thế lực ngoại bang sử dụng và có tiền sinh sống, Thương đã bất chấp sự khoan dung của đất nước và tiếp tục lún sâu hơn vào con đường tội lỗi khi sử dụng không gian mạng tạo lập các tài khoản để bịa đặt, nói xấu tình hình đất nước, chống phá Việt Nam. Trên tài khoản facebook cá nhân và tài khoản youtube “Tiếng nói Dân chủ Việt”, đối tượng đã công khai bộc lộ là một kẻ phản bội lại quê hương, đất nước khi liên tục phát tán những thông tin sai trái, bịa đặt. Chính y đã tự bôi xấu bản thân, làm ảnh hưởng đến những người thân và tự chặn lại con đường trở về quê hương mà một số kẻ đã sai lầm mắc phải trước đây.

Trương Quốc Huy – “con rối” trong tay các thế lực bên ngoài

Trương Quốc Huy, sinh năm 1981 tại TP Hồ Chí Minh. Huy chỉ học hết lớp 7 rồi bỏ giữa chừng, trong thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự đã vi phạm kỷ luật và bị loại ngũ. Do kém hiểu biết, trong giai đoạn 2004, 2005, Huy và Hàng Tấn Phát - một kẻ đồng tính, đã bị các tổ chức phản động dụ dỗ, lôi kéo tham gia vào tổ chức phản động“Hội đồng Dân quân cứu quốc” do đối tượng khủng bố Nguyễn Hữu Chánh cầm đầu.

Sau đó, được sự hà hơi, tiếp sức, chỉ đạo của các đối tượng phản động Bùi Quang Vinh, Nguyễn Hoàng Huy Đức và Lisa Phạm, Trương Quốc Huy đã thu thập, phát tán các tài liệu trên các trang web phản động có nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam và phát tán tờ rơi có nội dung xuyên tạc chính quyền “đàn áp tôn giáo”, do đó đã được tổ chức khủng bố của Nguyễn Hữu Chánh chuyển cho 600 USD.

Do có hoạt động vi phạm pháp luật, năm 2005, Trương Quốc Huy và Lisa Phạm đã bị cơ quan chức năng của Việt Nam bắt để điều tra làm rõ. Trong thời gian bị tạm giam, hai đối tượng đều tỏ ra ăn năn hối lỗi, viết nhiều lá đơn xin khoan hồng, nội dung rất thống thiết như “Đơn xin cam kết từ bỏ hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam; tôi nhận thấy hành vi của mình vi phạm pháp luật nghiêm trọng, đi ngược lại mục tiêu chung của dân tộc…

Tôi xin cam kết từ bỏ tất cả để trở thành công dân lương thiện…”. Với mục đích nhân đạo, mở cho kẻ lầm đường lạc lối trở lại thành công dân lương thiện, Trương Quốc Huy được trả tự do sau 9 tháng giam giữ mà không bị truy tố và Lisa Phạm bị trục xuất về Mỹ.

Tuy nhiên, với bản chất phá hoại khó thay đổi, sau khi được trả tự do, Trương Quốc Huy đã tiếp tục có hoạt động vi phạm pháp luật, gia nhập các tổ chức phản động. Năm 2006, Trương Quốc Huy và anh trai là Trương Quốc Tuấn bị bắt về tội "Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

Năm 2008, Trương Quốc Huy bị tòa án xét xử, tuyên phạt 6 năm tù giam và 3 năm quản chế. Năm 2012, sau khi mãn hạn tù, Trương Quốc Huy cùng Trương Quốc Tuấn trốn sang Thái Lan và bị bắt giữ vì hành vi nhập cảnh trái phép; sau đó đã được tỵ nạn tại Mỹ dưới sự bảo trợ, bảo lãnh của tổ chức, cá nhân phản động đã từng hà hơi, tiếp sức cho đối tượng hoạt động chống phá Việt Nam.

Sau khi được tỵ nạn tại Mỹ, Trương Quốc Huy tiếp tục “ngựa quen đường cũ” và để có tiền trang trải cho cuộc sống, y đã tuyên bố gia nhập các tổ chức phản động và tạo lập các tài khoản mạng xã hội, trang mạng phản động, trong đó có N10Tv để phát tán tài liệu sằng bậy, bịa đặt chống phá Việt Nam.

                                                                                    TT.11

MỘT SỐ THÁCH THỨC TRONG ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG HIỆN NAY


Trước tình hình trong nước và quốc tế có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những biến động khó lường như hiện nay, không gian mạng trở thành công cụ nền tảng mới để giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ và nhân dân; đồng thời, đó cũng là một không gian mới để đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, là một phương thức mới để định hướng dư luận xã hội về mặt tư tưởng. Do không gian mạng có tính mở với đặc trưng tự do, đa dạng, bình đẳng, nhiều khi bị xoá nhoà ranh giới giữa thực và ảo, giữa vật lý và hiện thực, vì vậy không gian mạng mang đến những thách thức to lớn đối với nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây thực sự là một mặt trận quan trọng và không thể buông lỏng.

Hiện nay, các hệ tư tưởng, các luận điểm, các học thuyết ngoài mácxít, từ các loại chủ nghĩa khác nhau như chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa khủng bố mạng… cho đến chủ nghĩa vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng lạc, cũng như vô số các tôn giáo, tín ngưỡng, thậm chí là mê tín dị đoan, đang xuất hiện một cách tràn lan trên không gian mạng. Lợi dụng triệt để những ưu thế của không gian mạng, một cách trực tiếp hay gián tiếp, các loại hình ý thức hệ đó đã và đang công khai hay ngấm ngầm chĩa mũi nhọn vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều luận điểm, quan điểm trong các ý thức hệ đó đi ngược lại với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời chứa đựng tính chất độc hại, phản động, đang bóp méo thế giới quan và xuyên tạc nhân sinh quan, cố tình định hướng giá trị một cách sai lầm cho những người dùng mạng internet nói riêng và cho người dân Việt Nam nói chung.

Đấu tranh trên không gian mạng hiện nay thực sự là cuộc “đọ súng” trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Trận địa tư tưởng cần vũ khí quan trọng nhất là vũ khí lý luận, song lý luận phải thật sự khoa học chứ không phải lý thuyết suông, lý luận phải xuất phát từ thực tiễn và mang hơi thở của cuộc sống, phải bao quát được những vấn đề nền tảng, có tính quy luật và đưa ra hướng giải quyết những vấn đề then chốt. Bất kể sự phát triển của không gian mạng và các phương tiện truyền thông như thế nào, thì suy nghĩ và quan điểm vẫn là thành tố quan trọng nhất của nội dung tư tưởng. Nếu không có nội dung, không có chiều sâu thì lý luận dù hay đến đâu cũng chỉ là hô khẩu hiệu, trống rỗng, không có bất kỳ ảnh hưởng tích cực nào. Chúng ta phải sử dụng lý luận làm nền tảng vững chắc cho định hướng chính trị và dẫn dắt dư luận. Trong trận địa tư tưởng trên không gian mạng, việc chúng ta có đứng vững và chiến thắng hay không đều liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ. Vì vậy, để có thể định hướng tư tưởng trên không gian mạng, mỗi chúng ta cần phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng sự thực khách quan, đối mặt với các vấn đề đang nảy sinh từ thực tiễn của xã hội; dựa trên thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nhận thức đúng và đưa ra các ý tưởng, phương án giải quyết các vấn đề của Việt Nam một cách đúng đắn, hiệu quả; từ đó mới có thể nâng cao tính thuyết phục, tính định hướng của hệ tư tưởng chính thống.

QT.11

 

MUỐN THÀNH ĐẠT THÌ PHẢI KỶ LUẬT


Đa phần chúng ta nuông chiều cái sướng của bản thân, rơi mất kỷ luật. Ngủ dậy sớm là dậy sớm. Đi là đi. Ăn là ăn. Tới giờ làm cái gì là làm cái đó, không có ráng 1 chút nữa, nhấc đít lên không nổi, làm cái gì cũng lề mề. Đang giờ làm việc, tò mò facebook quá, thế là bỏ công việc đang làm, lên FB coi. Coi chục status toàn buồn nhẹ với chán chồng, cái mình cũng bị lây theo, hết muốn làm việc.

Quyết tâm làm cho được, không để bệnh nửa chừng rồi bỏ. Quyết tâm học Anh Văn là đăng ký học, mở máy học, chứ không phải vô Youtube coi mấy cái clip hài tốn thời gian. Quyết tâm thể dục thể thao là mở sáng thức dậy đi tập, kiên quyết không bỏ dù trời có lạnh cách mấy. Hứa hẹn gì phải làm cho được, đi đâu cũng phải đúng giờ.

Thủ Tướng Lee Kuan Yew - Lý Quang Diệu là một bậc trí giả của loài người thời chúng ta đang sống. Ông có công đưa Singapore từ 1 miếng đất bèo nhèo trở thành thành phố quốc tế nhất ở châu Á, giàu có bậc nhất thế giới. Ông có câu nói nổi tiếng: “If you want to reach your goals and dreams, you cannot do it without discipline." Tức là: "Bạn không thể đạt được mục tiêu và ước mơ của mình nếu bạn thiếu kỷ luật."

Dream là giấc mơ, ước mơ. Ước mơ thì phải vĩ đại, đâu có ai đánh thuế đâu mà "giấc mơ con đè nát cuộc đời con". Suy nghĩ chi nhỏ xíu, vụn vặt, ăn cắp chi vài ba đồng, nói dối chi cho thành người rẻ tiền vậy. Mơ lớn lên, vẫy vùng ra biển lớn đi, xách giỏ đi giao lưu quốc tế để thấy thế giới rộng lớn thế nào. Thế hệ mình sẽ lái xe hơi, ở biệt thự hoặc chung cư cao cấp, đi xe buýt xe điện, nói tiếng Anh rào rào như giới trẻ các nước... Từ bỏ ngay thói quen ngồi quanh ao làng cãi nhau với thằng Ổi con Mít, tranh chấp quyết liệt mấy trái ổi trái xoài, cãi vã nhau mấy chuyện ai nuôi nhiều hơn mấy con lợn con gà, lấn chi với bà Tư bà Bảy chút hàng rào dâm bụt, giành chi từng mét đường để đi trước 1 chút, chen chi vô trường gì đó mà người ta cho là ngon trong khi ước mơ nghề nghiệp của mình thì không dám theo đuổi, mắc mớ gì cứ phải sống cho người khác coi?

Một tổ chức, công ty xí nghiệp chỉ thành công khi mỗi thành viên ở đó có tính kỷ luật. Không có chuyện kỷ luật cao hay thấp. Kỷ luật là kỷ luật. Đó là các nguyên tắc, các quy định mà mọi người phải tuân theo.

Đất nước Đức hùng mạnh vì tính kỷ luật. Nước Nhật cũng vậy. Và mỗi cá nhân, cũng vậy. Tự đặt ra các kỷ luật cho bản thân mình và thực hiện cho bằng được. 5% dân số trong mọi xã hội thành đạt vì họ có tính kỷ luật cao, làm cái gì ra cái ấy. Còn 95% còn lại thì bèo nhèo, mệt mỏi, vừa làm vừa chơi, mọi thứ cứ làng nhàng. Cuộc đời cứ làng nhàng, về già ngồi nghĩ lại sao mình cũng có một cuộc đời, nhưng sao tẻ nhạt vậy? Thì trách thời tuổi trẻ ấy.

Chính vì vây, muốn thành đạt, phải KỶ LUẬT.

HH.11

CẦN LÊN ÁN, BÁC BỎ NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN MẠNG XÃ HỘI


Gần đây một số phần tử thường lấy trình độ phát triển của Việt Nam so sánh với các nước trên thế giới và khu vực, cho rằng Việt Nam có đủ mọi điều kiện để trở nên giàu có, dân tộc ưu tú, tài nguyên trù phú...nhưng vẫn không phát triển theo kịp với nhiều nước, vẫn là một nước nghèo và thu nhập của người dân thua xa so với các nước đó nhiều năm, thậm chí cả hàng trăm năm và chúng đổ lỗi cho Đảng đã phá nát những tiềm năng đó và ưu tiên làm giàu cho gia đình của cán bộ, đảng viên trước. Chúng còn xuyên tạc cho rằng hệ thống thuế phí ở Việt Nam cao hơn các nước là để bù cho tham nhũng, thất thoát, lãng phí, nếu Việt Nam còn chế độ cộng sản thì chẳng bao giờ phát triển theo kịp và khoảng cách ngày càng xa...Đây là những luận điệu hết sức thâm độc của các phần tử phản động, chúng đưa ra những lý lẽ nghe có vẻ rất thuyết phục thâm chí còn dẫn chứng bằng những số liệu mà những người thiếu cảnh giác và tỉnh táo dễ ngộ nhận và bị thuyết phục. Thực tế, chúng cố tình bỏ quên những vấn đề lịch sử đó là Việt Nam trải qua chiến tranh liên miên, tất cả mọi nguồn lực đều dồn vào cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Sau chiến tranh, Việt Nam bước vào thời kỳ tái thiết đất nước, khắc phục những hậu quả nặng lề do chiến tranh để lại, thậm chí đến những cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX chiến tranh vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt, trong bối cảnh đó Việt Nam bị bao vây, cấm vận, cô lập về mọi mặt với muôn vàn khó khăn, trong khi nhiều nước khác trên thế giới có những điều kiện thuận lợi để phát triển. Nhưng trước những khó khăn, thách thức đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Việt Nam đã tiến hành đổi mới và giành  được nhiều thành tựu quan trọng đưa đất nước phát triển đi lên, gỡ bỏ được các lệnh cấm vận và tích cực hội nhập quốc tế, trở thành thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Nhìn lại những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Điều đó, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là đúng đắn và sáng suốt, không thể xuyên tạc và phủ nhận. Tuy nhiên, một số ít cán bộ đảng viên do tha hóa, biến chất đã vi phạm pháp luật, tham ô, tham nhũng gây thiệt hại cho sự phát triển của đất nước, nhưng đã bị pháp luật trừng trị, đó là kết quả của công cuộc phòng chống tham nhũng của Đảng, không có ngoại lệ, không có vùng cấm. Điều đó càng khẳng định quyết tâm của Đảng ta trong phòng chống tham nhũng, không có chuyện quan tâm làm giàu cho gia đình của cán bộ, đảng viên trước.

Đặc biệt, trong những năm gần đây do ảnh hưởng của đại dịch covid -19, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã làm rất tốt công tác phòng chống dịch, từng bước đưa đất nước vào thời kỳ thích ứng, an toàn với dịch bệnh, mọi hoạt động sản xuất, sinh hoạt của người dân dần trở lại bình thường, trong khi trên thế giới, nhiều nước vẫn còn đang rất khó khăn...

Tất cả những điều đó khẳng định một điều, mặc dù Việt Nam ở vào thế bất lợi hơn rất nhiều so với các nước trên thế giới và khu vực, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam đã có sự phát triển  rất mạnh mẽ, toàn diện và ngày càng phát triển hơn. Không thể so sánh một cách khập khiễng rồi quy chụp, xuyên tạc, đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên đa đảng, hòng gây hoang mang, mất niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng. Những luận điệu thâm độc đó cần phải bị lên án, phê phán và loại bỏ.

VT.11