Thứ Tư, 13 tháng 9, 2023

TIẾP DIỄN TRÒ “BÁO CÁO VỀ TỰ DO BÁO CHÍ”!

             Ngày 31/7/2023, một tổ chức phi lợi nhuận với tên gọi Quỹ Nhân quyền (Human Rights Foundation – HRF) có trụ sở tại New York, Mỹ đã công bố báo cáo cho rằng Việt Nam nằm trong số quốc gia đàn áp báo chí nhất ở châu Á. Những cáo buộc trên nhằm mục đích tuyên truyền, vu cáo Việt Nam “đàn áp tự do ngôn luận, tự do báo chí” vi phạm tự do, dân chủ và nhân quyền. Theo thông tin trên mạng Internet thì tổ chức này được thành lập vào năm 2005 bởi người có tên là Thor Halvorssen, một nhà sản xuất phim và nhà hoạt động nhân quyền người Venezuela hiện đang sống lưu vong tại Mỹ. Nếu lúc đầu đọc qua tên của HRF, nhiều người sẽ lầm tưởng đây là Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW). Tuy nhiên, do mới được thành lập nên so với các tổ chức trước đó như Tổ chức phóng viên không biên giới (RSF), Tổ chức Bảo vệ ký giả (CPJ), Ngôi nhà tự do (Freedom House)… thì đây là một tổ chức ít được biết đến.

Cách đưa tin của HRF thiên lệch, sai trái, có dụng ý nhằm vào chỉ trích, phê phán các nước đang hướng theo các giá trị khác với ý thức hệ tư bản và các nước theo đạo Hồi; đồng thời tâng bốc các giá trị “tự do, dân chủ” kiểu Mỹ. Do đó, kể từ khi thành lập đến nay, tổ chức này lặp lại điệp khúc “chọc gậy bánh xe” như một số tổ chức cùng tên gọi “hoạt động nhân quyền” đã khiến tính công tâm, độc lập như tiêu chí của HRF đưa ra chỉ là sự xảo trá, trở thành con rối đội lốt nhân quyền phục vụ mục đích chính trị. Số này là những phần tử chống đối, thường xuyên viết bài trên mạng xã hội, trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài rồi tự coi mình là “nhà báo”! Phải chăng, bất kể facebooker hay blogger nào đó vi phạm pháp luật Việt Nam, gây nguy hại cho an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội cũng được HRF coi là “nhà báo”? Điều đó cho thấy HRF đang thực hiện không đúng tôn chỉ, mục đích của chính họ đặt ra là “bảo vệ tự do dân chủ, nhân quyền”.

Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam là quyền tự do có giới hạn. Việc giới hạn quyền tự do đó được quy định theo “nguyên tắc gây hại”, “nguyên tắc xúc phạm”, hoặc xung đột với các quyền khác. Những quy định hạn chế quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trong luật pháp Việt Nam đối với một số trường hợp là hoàn toàn tương thích với các văn kiện quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã cam kết.

Quan điểm xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25, Hiến pháp (năm 2013) ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của công dân được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra chủ trương “Xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại”. Tại Chương II, Luật Báo chí (năm 2016) cũng quy định về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân.

Trong đó, Điều 13 quy định: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình”; “Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân”.

Điều 14, Luật Báo chí đã bổ sung một số đối tượng được thành lập tạp chí khoa học, như: cơ sở giáo dục đại học theo quy định của Luật Giáo dục đại học; tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ; bệnh viện từ cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc tương đương trở lên. Quy định này cũng cho phép các cơ sở giáo dục, tổ chức khoa học và công nghệ thuộc loại hình tư thục, có đầu tư của nước ngoài được phép ra tạp chí khoa học.

Với những quy định này, mọi người đều có thể tham gia vào hoạt động báo chí, tự do tìm kiếm, phát hiện đề tài và đưa ra sản phẩm báo chí, đảm bảo quyền tự do hoạt động theo quy định của Luật Báo chí và các luật liên quan.

Theo số liệu chính thức của Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến hết năm 2022, nước ta có 869 cơ quan báo chí được cấp phép. Tất cả đều thuộc các tổ chức của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp, các hội nghề nghiệp… với khoảng 41.000 người hoạt động trong lĩnh vực báo chí, trong đó có 19.356 trường hợp được cấp thẻ nhà báo. Đây chính là “binh chủng” truyền thông đa phương tiện, tạo ra sức mạnh truyền thông cộng hưởng, giữ vai trò định hướng, chi phối thông tin, với vị thế là nguồn thông tin chính thống. Cùng với các cơ quan báo chí, mạng xã hội tại Việt Nam cũng phát triển vô cùng mạnh mẽ.

Theo Báo cáo Digital tại Việt Nam 2023 được We are social đưa ra, tính đến đầu năm 2023, nước ta có 77,93 triệu người sử dụng Internet, chiếm khoảng 79,1% tổng dân số, tăng thêm 5,3 triệu người so với năm 2022. Số lượng người đang dùng mạng xã hội là khoảng 70 triệu người. Trong đó, 5 ứng dụng mạng xã hội phổ biến là Facebook (91,6%), Zalo (90,1%), TikTok (77,5%), Facebook Messenger (77%) và Instagram (55,4%). Thông qua mạng xã hội, mỗi người dùng đều dễ dàng đăng tải, chia sẻ, bình luận thông tin liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội.

Trong thời gian qua, báo chí đã có những đóng góp vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt, trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, vừa góp phần phát hiện các vụ việc vi phạm, vừa đóng góp những ý kiến, giải pháp để hoàn thiện thể chế phòng, chống tham nhũng. Cùng các cơ quan báo chí trong nước, trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhiều cơ quan báo chí nước ngoài đã đặt văn phòng đại diện hoặc cử phóng viên thường trú tại Việt Nam. Ngoài ra, hiện có khoảng 57 kênh truyền hình nước ngoài được cung cấp trên dịch vụ truyền hình của Việt Nam. Rõ ràng, đời sống báo chí ở Việt Nam đang diễn ra hết sức sôi nổi. Từ thực tiễn trong nước cùng sự soi chiếu đối với các quốc gia trên thế giới cho thấy, quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận của người dân Việt Nam luôn được bảo đảm. Đó là sự thật không thể xuyên tạc.

Báo cáo cho rằng Việt Nam nằm trong số quốc gia “đàn áp báo chí nhất ở châu Á” của HRF dựa trên những thông tin sai trái của các tổ chức, cá nhân phản động, các đối tượng hoạt động chống phá Việt Nam nên không thể coi đó là kết quả khảo sát, căn cứ đánh giá về tự do báo chí, dân chủ, nhân quyền. Rõ ràng, HRF dù với tên gọi có thể khác về câu chữ nhưng động cơ, cách làm cũng chỉ là sự tái diễn những điêp khúc mà những tổ chức như HRW, RSF, CPJ… đã làm.

PXC

NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CHỦ TRƯƠNG SẮP XẾP ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH

             Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Kết luận của Bộ Chính trị, Quốc hội đã có Nghị quyết số 35/2023/UBTVQH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 – 2030, có hiệu lực thi hành từ ngày 19/7/2023. Lợi dụng vấn đề này và thời điểm cấp ủy, chính quyền địa phương có những bước nghiên cứu, rà soát chuẩn bị thực hiện, nhiều đối tượng, phần tử cơ hội đã tung ra các quan điểm sai trái, xuyên tạc chống phá.

Thực tế, không ít trường hợp núp bóng “xã hội dân sự”, dưới chiêu bài “phản biện” để xuyên tạc, chống phá Hiến pháp 2013 và nhiều vấn đề khác. Nhiều bài viết cũng “bóc mẽ” hành vi của một số cá nhân chống đối khi cố tình cắt gọt bản chất vấn đề để xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ; gây hoang mang dư luận, làm giảm niềm tin của nhân dân; kêu gọi, kích động, lôi kéo người dân tham gia biểu tình, hoạt động với mục đích chống đối chính quyền.

Mượn gió bẻ măng, lấy cớ để chống phá, trên không gian mạng, các tổ chức phản động như Việt Tân, VOA, Báo Tiếng Dân… suy diễn, xuyên tạc: “Hôm nay nghe sáp nhập mà kinh. Gần 100 triệu dân Việt Nam, cả đời đi làm lại giấy tờ vì ai đó thích. Xin hỏi, các vị định hành dân đến bao giờ”! Có trường hợp đưa ra những phê phán tùy tiện khi cho rằng, quy định tại Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính để tính số lượng công chức cấp xã tăng thêm như sau: Phường thuộc quận cứ tăng thêm đủ 1/3 mức quy định về quy mô dân số thì được tăng thêm 1 công chức; các đơn vị hành chính cấp xã còn lại cứ tăng thêm đủ 1/2 mức quy định về quy mô dân số thì được tăng thêm 1 công chức. Từ đó quy kết, tất cả những thay đổi, tách nhập kiểu này “đều dẫn đến sai lầm, kìm hãm và bế tắc”! Từ đó họ miệt thị rằng, việc tách nhập địa giới hành chính là sự tùy tiện, thể hiện sự “yếu kém, bế tắc” trong quản lý hành chính.

Trái với quan điểm chống phá nêu trên, thực tế, việc sắp xếp tổ chức, bộ máy, đơn vị hành chính trong hệ thống chính trị, trong đó có việc sắp xếp một số đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã nhằm phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn, đặt trong tổng thể nhiều chủ trương, giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hoàn thiện, phát triển Nhà nước pháp quyền XHCN, phục vụ giai đoạn phát triển mới. Sắp xếp tổ chức, bộ máy trong hệ thống chính trị tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là chủ trương lớn. Quá trình thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019 – 2021 bám sát mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đề ra tại Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII và Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 24/12/2018 của Bộ Chính trị về sắp xếp đơn vị hành chính. Nghị quyết của Quốc hội chỉ rõ: Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất năm 1975 đến nay, đơn vị hành chính các cấp ở nước ta đã được điều chỉnh, sắp xếp lại phù hợp với từng giai đoạn lịch sử và đã đạt được một số kết quả tích cực góp phần phát huy nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước cũng thẳng thắn nhìn nhận, việc chia, tách đơn vị hành chính các cấp thời gian qua đã nảy sinh một số bất cập và hạn chế. Nhiều đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã quy mô quá nhỏ, không gian phát triển bị chia cắt, gây ra nhiều khó khăn, cản trở trong công tác lập kế hoạch, quy hoạch dài hạn, định hướng phát triển kinh tế – xã hội tầm vĩ mô cũng như quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng; nguồn lực của địa phương và Trung ương cho phát triển kinh tế – xã hội bị phân tán, nhất là trong điều kiện Trung ương đang đẩy mạnh phân cấp, trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho chính quyền địa phương. Việc tăng số lượng đơn vị hành chính các cấp đã dẫn đến tổ chức bộ máy, biên chế của các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị ở địa phương tăng; ngân sách nhà nước chi cho hoạt động của bộ máy, xây dựng trụ sở, mua sắm mới trang thiết bị làm việc tăng; đại đa số các đơn vị cấp huyện, cấp xã thu ngân sách tại địa phương không đủ cân đối chi thường xuyên, chủ yếu Trung ương phải hỗ trợ.

Sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã nhằm tổ chức hợp lý đơn vị hành chính các cấp phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của đất nước; bảo đảm hoàn thiện thể chế về đơn vị hành chính, bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; góp phần phát huy mọi nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Phấn đấu đến năm 2030, các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã được sắp xếp cơ bản phù hợp chiến lược phát triển kinh tế – xã hội; đáp ứng yêu cầu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN.

Sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã để bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ; thực hiện theo từng giai đoạn, mỗi giai đoạn có trọng tâm, phù hợp, chặt chẽ, thận trọng, hiệu quả, chắc chắn, phù hợp với quy hoạch tổng thể, yêu cầu phát triển; bảo đảm ổn định chính trị – xã hội. Thông qua sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã để từng bước đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh giản biên chế, cải cách chế độ tiền lương, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Phát huy hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và xã hội cho phát triển kinh tế – xã hội trong từng địa phương và trên phạm vi toàn quốc; nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Việc sắp xếp phải đảm bảo không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và cuộc sống của nhân dân.

Quan điểm chỉ đạo chung là mỗi một đơn vị hành chính cụ thể được sáp nhập phải chú trọng, cân nhắc kỹ các yếu tố đặc thù về lịch sử, truyền thống, văn hóa, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, điều kiện địa lý – tự nhiên, cộng đồng dân cư… như một số quận nội thành Hà Nội. Việc sắp xếp đơn vị hành chính là việc khó, nhạy cảm, phức tạp, liên quan đến nhiều người, nhiều ngành, tác động đến người dân, doanh nghiệp và các chủ thể khác. Trước vấn đề mang tính khó khăn, phức tạp, việc người dân có ý kiến góp ý, xây dựng, đề xuất những giải pháp là hoàn toàn cần thiết, được Đảng, Nhà nước khuyến khích, trân trọng. Tuy nhiên, lợi dụng vào đó để xuyên tạc, đưa ra những quan điểm sai trái, thậm chí xuyên tạc với động cơ, mục đích xấu, tạo nhận thức lệch lạc hòng làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào chủ trương, đường lối, cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước cần phải được vạch trần, đấu tranh phản bác.

LVT

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI CÁC THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại nhiều lợi ích nhưng cũng mang lại những thách thức to lớn đối với các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Lợi dụng không gian mạng, các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. Hoạt động của các tổ chức chống phá có mục tiêu tôn chỉ được tổ chức khá chặt chẽ, bài bản. Mục tiêu xuyên suốt của chúng là tuyên truyền chống phá, lôi kéo kêu gọi tụ tập, biểu tình, bạo loạn, gây rối trật tự công cộng, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” phá hoại sự ổn định phát triển đất nước. Hầu hết các tổ chức phản động đều xây dựng tài khoản mạng xã hội tổ chức thành hệ thống các kênh truyền thông chống phá.

Qua thực tiễn tình hình trong nước, có thể nhận thấy âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trên không gian mạng cơ bản vẫn tập trung vào một số nội dung, như: Xuyên tạc phá hoại nền tảng tư tưởng, xuyên tạc đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; gây mâu thuẫn nội bộ, công kích, bôi nhọ và hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, thông qua truyền thông mạng xã hội để kêu gọi, kích động biểu tình, gây mất an ninh, trật tự an toàn xã hội. Kích động hoạt động chống phá của số đối tượng chống đối chỉ trích Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền và “tự do Internet”, khuyến khích các đối tượng này chống phá quyết liệt hơn bằng cách trao các giải thưởng, đề cử vinh danh hay đưa Việt Nam vào danh sách “kẻ thù của Internet”, vi phạm tự do dân chủ, nhân quyền. Để thực hiện âm mưu thâm độc trên, các đối tượng phản động, thù địch thường dùng các thủ đoạn: Sử dụng tài khoản mạng xã hội có tương tác lớn hoặc tổ chức các chiến dịch truyền thông phát tán thông tin. Đăng tải tài liệu, thông tin, bình luận hướng dư luận nhìn nhận theo quan điểm sai lệch; dẫn nguồn thông tin từ báo chí chính thống, pha trộn thông tin thật-giả, xuyên tạc tình hình chính trị trong nước. Tiến hành xây dựng nhiều kênh thông tin trên các nền tảng xuyên biên giới có sự liên kết với nhau; đặc biệt phát triển các kênh truyền thông bằng tiếng dân tộc thiểu số (Mông, Khơme hướng tới đối tượng tuyên truyền là đồng bào dân tộc thiểu số.

Cổ súy tư tưởng chống phá, định kiến của một số người có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; phát tán, giật tít các bài viết của các đối tượng này lên Internet, mạng xã hội. Lợi dụng lợi ích cá nhân của một bộ phận người dân trong giải quyết vấn đề đất đai, các vụ án kinh tế. để kích động lôi kéo người dân tham gia vào các hoạt động gây rối, mất an ninh chính trị trên mạng xã hội, từ đó lan truyền, hiện thực hóa trên thực địa. Sử dụng “khoảng trống thông tin” để tấn công vào sự hiếu kỳ của công chúng; trước khi có kết luận của cơ quan có thẩm quyền, phát tán ồ ạt những tin bài xuyên tạc, bóp méo sự thật, hướng lái dư luận thông qua những tiêu đề “giật gân”, “câu khách”.

Thu hút, lôi kéo người dân vào tổ chức; thâm nhập vào các diễn đàn, mạng xã hội dành cho giới trẻ để phát hiện, lôi kéo đầu mối; sử dụng các hình thức liên lạc qua mạng để móc nối, huấn luyện và chỉ đạo cơ sở phản động thực địa. Sử dụng truyền thông mạng xã hội để lừa gạt, lôi kéo nhân dân, hình thành và công khai hóa tổ chức núp dưới danh nghĩa các tổ chức xã hội dân sự hay tổ chức phản biện xã hội.

Cùng với đó, chúng lợi dụng các sự kiện chính trị, kinh tế, quân sự… trên thế giới (xung đột quân sự Nga-Ukraine, đảo chính quân sự ở Niger…), sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, các vụ án về kinh tế, hoạt động khẳng định chủ quyền biển đảo, biên giới... đề dẫn nguồn thông tin từ báo chí chính thống, pha trộn thông tin thật-giả; xuyên tạc tình hình chính trị, xã hội, kinh tế trong nước và có thời điểm tổ chức hoạt động tuyên truyền chống phá thành “chiến dịch” dưới nhiều hình thức.

Lợi dụng hạn chế, bất cập trong công tác quản lý kiểm duyệt nội dung trên các nền tảng mạng xã hội để tuyên truyền xuyên tạc; lợi dụng chính sách của mạng xã hội, thành lập hàng nghìn hội nhóm tổ chức chính trị phản động, trong đó bao gồm cả hội nhóm công khai, bí mật với số lượng thành viên tham gia lớn, lôi kéo, thu hút, mời chào thành viên tham gia, hoạt động có đường hướng, tôn chỉ, mục đích cụ thể. Tạo lập các trang mạng, tài khoản mạng xã hội giả mạo các cơ quan của nhà nước, các đồng chí lãnh đạo, các cá nhân có ảnh hưởng... để đăng tải thông tin phản động; xuyên tạc, lợi dụng sự hiếu kỳ của người dân và sự thiếu hiểu biết của một bộ phận người dân để kích động cộng đồng mạng tham gia phát tán thông tin xấu độc.

Trước tình hình diễn biến trên không gian mạng ngày càng phức tạp cùng với các hoạt động chống phá có tổ chức, xây dựng và lên kế hoạch tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, các đối tượng phản động, chống đối, cơ hội chính trị, theo chúng tôi cần thực hiện một số vấn đề mang tính giải pháp sau:

Thứ nhất, sử dụng thông tin chính thống đóng vai trò dẫn dắt định hướng dư luận. Các ban ngành đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, các cơ quan thông tấn báo chí cần phát huy được vai trò trong cung cấp thông tin chính thống kịp thời và chính xác, tránh tạo khoảng trống thông tin để các đối tượng phản động lợi dụng phát tán các thông tin xuyên tạc, để các tầng lớp nhân dân được tiếp cận với thông tin chính thống trước khi tiếp cận với thông tin phản động. Hệ thống các kênh truyền thông của các cấp từ Trung ương đến địa phương cần được xây dựng đồng bộ, có sự liên kết chặt chẽ giữa các kênh truyền thông để tạo ra sức ảnh hưởng lớn với dư luận.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp, hiệp đồng. Phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng trong và ngoài Quân đội có thế mạnh trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trên không gian mạng và trên báo chí, Trong đó lực lượng của Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì đề xuất xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp có cơ chế phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền với nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội, yêu cầu thực hiện đúng theo pháp luật Việt Nam, hợp tác trong việc xóa bỏ các thông tin tiêu cực, thông tin xấu độc ảnh hưởng đến nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; phối hợp lực lượng Bộ Quốc phòng, Bộ Công an cung cấp trao đổi thông tin kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh các đối tượng lợi dụng Internet mạng xã hội để tổ chức các hoạt động phát tán tin giả, thông tin sai sự thật nguy hại đến chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc.

Thứ ba, nghiên cứu phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động đấu tranh. Xây dựng và khai thác có hiệu quả các trọng tâm nghiên cứu công nghệ thông tin trên từng lĩnh vực, từ đó có kế hoạch để triển khai các nhiệm vụ truyền thông, đấu tranh với thông tin xấu bảo đảm sự bài bản, tính chính xác, hiệu quả. Tiếp tục nghiên cứu các giải pháp, ứng dụng sức mạnh của khoa học, công nghệ thông tin để tăng cường khả năng theo dõi, bám nắm, giám sát tình hình; hỗ trợ cho công tác quản lý, đánh giá chất lượng các hình thức đấu tranh. Nghiên cứu, xây dựng nội dung, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ hoạt động triệt phá tin giả, thông tin sai trái, xấu độc.

Xây dựng hệ thống kênh chỉ đạo điều hành đồng bộ từ chỉ huy đến cấp thực hiện, kênh liên lạc giữa các lực lượng tham gia đấu tranh. Hệ thống cho phép điều hành tổ chức các nhiệm vụ triệt phá tin giả, thông tin sai trái, xấu độc trên Internet, mạng xã hội đồng thời là kênh để cán bộ thực hiện có thể chia sẻ kinh nghiệm cách thức tổ chức xử lý thông tin xấu độc. Trang bị cho lực lượng đấu tranh các hệ thống hiện đại để giám sát phát hiện kịp thời các thông tin xuyên tạc trước khi bị phát tán ra nhiều tài khoản mạng xã hội tiếp cận đến số lượng lớn cộng đồng mạng.

Thứ tư, nâng cao nhận thức, vai trò cán bộ, đảng viên và quần chúng trong việc khai thác, sử dụng Internet và mạng xã hội. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị nâng cao hơn nữa nhận thức, vai trò, trách nhiệm, tiền phong, gương mẫu nêu gương trong việc khai thác, sử dụng Internet và mạng xã hội. Phát huy tính hiệu quả, thiết thực việc sử dụng mạng xã hội để tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, truyền tải, nhân rộng những yếu tố tích cực, tấm gương tiêu biểu, người tốt, việc tốt, những giá trị văn hóa nhân văn, tinh thần tương thân, tương ái của quốc gia, dân tộc. Đồng thời, tích cực đấu tranh chống các thông tin sai trái, phản động, bịa đặt trên mạng xã hội, phê bình, phản đối các hành vi lợi dụng Internet, mạng xã hội để chia sẻ, thông tin, bình luận, đăng tải những hình ảnh phản cảm, thiếu tinh thần trách nhiệm, thờ ơ, vô cảm với những khó khăn, mất mát của nhân dân.

NXT

CHIÊU TRÒ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙI ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG

 Nguyễn Văn Đài đã đăng trên trang DBureau CTM Media – Âu Châu bài viết có nội dung sai trái, thù địch, xuyên tạc về tình hình tư tưởng chính tri của đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Với luận điệu hết sức phản động Nguyễn Văn Đài cho rằng “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn coi những quan chức CSVN mà có tư tưởng thỏa hiệp với người dân là những quan chức tự diễn biến, tự chuyển hóa, có đường lối theo xu hướng dân túy. Và những quan chức này phải bị loại trừ ra khỏi chế độ độc tài, độc đảng CSVN”. Qua đó, làm cho cán bộ, đảng viên, một bộ phận quần chúng nhân dân hoài nghi, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cần thấy rõ, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của Nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, mọi cán bộ, đảng viên đều gắn bó mật thiết với Nhân dân, vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ trung thành của Nhân dân.

Thời gian vừa qua, một bộ phận cán bộ, đảng viên do thiếu rèn luyện, tu dưỡng, do lòng tham, cộng với thiếu sự kiểm soát, kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng, dẫn đến tự đánh mất mình trước những cám dỗ quyền lực, tiền bạc, vật chất làm hoen ố danh dự người cộng sản, những cán bộ này đã bị xử lý  nghiêm khắc để làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn, giữ vững niềm tin trong Nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyên xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân thụ hưởng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đồng thời, kiên quyết xử lý những cán bộ quan liêu, tham nhũng, suy thoái, xa dân, vi phạm kỷ luật, không tôn trọng lợi ích của Nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng công cuộc phòng chống tham nhũng, suy thoái, xử lý những cán bộ vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân chưa bao giờ diễn ra quyết liệt như hiện nay, thể hiện ở chủ trương: Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không kể cán bộ đương chức hay đã nghỉ hưu.

Thực tiễn đã khẳng định, từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa “hồng” vừa “chuyên”, có đủ phẩm chất, năng lực, trí tuệ đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước chứ không đơn thuần chỉ là giải quyết vấn đề suy thoái mất niềm tin của Nhân dân. Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp quan trọng như: Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tại Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII (6/1997); Nghị quyết số 39-NQ/TƯ, ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số 26-NQ/TƯ ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, XII, XIII về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng,… Đến nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, phát triển toàn diện, từng bước đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới, hội nhập của đất nước.

Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Nhà nước Việt Nam đã luôn đặt sự hài lòng của nhân dân lên hàng đầu, bảo vệ quyền lợi của nhân dân, giám sát việc thực hiện chính sách của Nhà nước và giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến lợi ích của người dân, phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin, sử dụng công nghệ để tăng cường tính minh bạch, tạo ra một môi trường thông tin rộng rãi, đa dạng để người dân có thể tiếp cận và hiểu rõ hơn về các chính sách và quyết định của Nhà nước, tăng cường sự đoàn kết và sự gắn bó giữa Nhà nước và nhân dân, tạo ra một môi trường hòa bình, ổn định và phát triển bền vững cho đất nước. Nhà nước Việt Nam luôn đảm bảo quyền lợi và an ninh của người dân thông qua hệ thống pháp luật và các cơ quan chức năng; cung cấp dịch vụ công cộng, như giáo dục, y tế, giao thông, viễn thông và hệ thống các dịch vụ công; có những chính sách hỗ trợ việc làm, chính sách bảo vệ người lao động, chính sách phát triển nông thôn và chính sách phát triển kinh tế – xã hội các vùng miền khó khăn. Điều này đã giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân và đảm bảo quyền tiếp cận các dịch vụ cơ bản cho tất cả mọi người; giúp cho mọi người dân có điều kiện phát triển và cải thiện chất lượng cuộc sống của mình, chứ không phải là Nhà nước, chế độ độc tài như luận điệu phản động của Nguyễn Văn Đài.

Tóm lại, những luận điệu phản động nêu ra trong bài viết của Nguyễn Văn Đài đã bộc lộ dã tâm thâm độc, xuyên tạc sự thật về công tác cán bộ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm gây hoang mang dao động, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, giảm lòng tin của Nhân dân với Đảng và chế độ. Do vậy, chúng ta cần hết sức cảnh giác, vạch trần âm mưu, thủ đoạn của Y.

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA: VẤN ĐỀ PHỦ ĐỊNH VÀ KHẲNG ĐỊNH

     Công cuộc đổi mới ở Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đã gần 40 năm. Đó là một quá trình khó khăn, lâu dài, vừa tìm tòi, vừa thử nghiệm, mặc dù còn những thiếu sót nhất định, song về cơ bản có thể khẳng định: công cuộc đổi mới của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, không hiểu sao, vì định kiến cá nhân, vì góc nhìn thiển cận, hay vì một lý do gì khác mà một số người xuyên tạc sự thật, “bôi đen” thực tế về “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, một thành quả to lớn của công cuộc đổi mới. Để góp phần làm sáng tỏ đường lối quan điểm của Đảng, tác giả xin nêu và trao đổi ý kiến của mình về một số luận điểm được đăng tải trên các trang mạng trong thời gian gần đây.

          Thứ nhất, một số người cho rằng về tên gọi mô hình kinh tế ở nước ta là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” không giống ai. Rõ ràng những người này đã không hiểu gì về lịch sử hình thành và phát triển cũng như những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là sự phát triển cao của kinh tế hàng hóa, đặc trưng lớn nhất của kinh tế thị trường là sự hoạt động tự do của các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Tuy nhiên, không phải kinh tế thị trường ở tất cả các nước, các chế độ xã hội đều giống nhau. Ngoài những đặc điểm chung không thể thiếu, tùy vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà kinh tế thị trường ở mỗi nước cũng có đặc điểm và tên gọi khác nhau như: Kinh tế thị trường tự do Hoa Kỳ, kinh tế thị trường có điều khiển Nhật Bản, kinh tế thị trường xã hội Cộng hòa liên bang Đức, kinh tế thị trường đặc sắc Trung Quốc… Vậy nên, tên gọi “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam vừa thể hiện cái chung là thể chế kinh tế thị trường, vừa thể hiện cái riêng là định hướng xã hội chủ nghĩa.

          Thứ hai, một số quan điểm cho rằng, không thể kết hợp kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo họ, kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa như “nước với lửa” làm sao có thể kết hợp được với nhau. Căn nguyên vấn đề nằm ở chỗ những người này cho rằng, kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản cho nên kinh tế thị trường không thể định hướng xã hội chủ nghĩa được. Nếu chọn kinh tế thị trường phải từ bỏ hệ tư tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Nghĩa là họ đã đem đối lập hoàn toàn giữa kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, phủ định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việc Đảng ta lựa chọn mô hình: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội. Giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội không có bức tường ngăn cách tuyệt đối, có thể làm tiền đề, điều kiện cho nhau.

Thứ ba, về tư duy đổi mới Đảng ta xác định: đổi mới kinh tế trước, rồi mới đổi mới từng bước về chính trị. Tuy nhiên, một số người lại cho rằng như vậy là mâu thuẫn với học thuyết Mác, vì rằng, học thuyết Mác luôn khẳng định chính trị là sản phẩm của một hình thái kinh tế xã hội. Ở đây, chúng ta không thấy có điểm gì mâu thuẫn giữa tư duy đổi mới của Đảng và học thuyết Mác, trái lại, tư duy đổi mới của Đảng là sự kế thừa và vận dụng đúng đắn, sáng tạo học thuyết Mác vào điều kiện lịch sử Việt Nam. Về mặt lý luận, học thuyết Mác chỉ ra giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó, kinh tế giữ vai trò quyết định chính trị, chính trị tác động trở lại kinh tế biểu hiện tập trung ở quyền lực nhà nước và sức mạnh vật chất tương ứng. Về mặt thực tiễn, bài học kinh nghiệm rút ra từ sự sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô chính là sự sai lầm trong thứ tự và cách thức tiến hành đổi mới, đó là đổi mới chính trị trước rồi mới đổi mới kinh tế.

Thứ tư, một số người cho rằng việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là một sự phản bội chủ nghĩa Mác. Muốn chỉ ra sự ngây ngô về khoa học của “họ” ta phải quay về lý luận gốc của C. Mác về điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa. Trong quyển 1 bộ Tư bản, Mác đã trình bày điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa. Theo đó, để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại cần có 2 điều kiện, một là, phân công lao động xã hội và hai là, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất. Ở đây cần làm rõ điều kiện thứ hai của sản xuất hàng hóa để tránh sự lầm lẫn đáng tiếc.

Tóm lại, từ những luận cứ khoa học và thực tiễn lịch sử kinh tế thế giới cũng như lịch sử kinh tế Việt Nam cho thấy rằng: phát triển kinh tế thị trường là điều tất yếu đối với tất cả các quốc gia muốn tồn tại và phát triển. Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam bây giờ không phải là lựa chọn phát triển kinh tế thị trường hay không, mà là lựa chọn một nền kinh tế thị trường như thế nào.

 

TBT

HIỂU THẾ NÀO VỀ QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH?

             Những năm gần đây, các thế lực thù địch gia tăng tốc độ, đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình" để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Trong chiến lược này, chúng tập trung tấn công trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và chúng coi đây là mũi đột phá. 

Chính vì vậy, tại Đại hội XIII, Đảng ta đã nhận định 4 nguy cơ mà Đảng đã đưa ra tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khóa VII) năm 1994 vẫn còn hiện hữu, có mặt còn sâu sắc hơn. Trong đó, có nguy cơ “diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.

Trước tình hình đó, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Vậy, hiểu thế nào về quan điểm sai trái, thù địch?

Trước hết, quan điểm sai trái là cách nhìn nhận thiên lệch, phiến diện, không đúng với lẽ thường, hoặc xa lạ với cách nhìn nhận của cộng đồng, xã hội. Quan điểm sai trái đi chệch hoặc ngược lại với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc điểm của quan điểm sai trái thể hiện:

(1) Nhận thức và nhìn nhận phiến diện, méo mó, sai lệch vấn đề nào đó so với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói sai, nghĩ sai về các vấn đề trong đời sống xã hội, thường là cường điệu hóa, “vơ đũa cả nắm".

(2) Việc hình thành các quan điểm sai trái là một quá trình tích tụ lâu dài, âm ỉ, do sự tác động của các yếu tố bên ngoài, nhất là các thế lực thù địch. Do thiếu hiểu biết, nhận thức kém, nên dao động về ý thức và nhận thức chính trị; thiếu hoặc không có thông tin chính thống, trong khi lại tin vào thông tin sai lệch, tràn lan trên mạng xã hội.

(3) Những quan điểm sai trái có tác động đến tâm trạng và suy nghĩ của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tùy mức độ ảnh hưởng mà có thể tác động trực tiếp, gián tiếp, nhanh hay chậm, sâu sắc hay chừng mực nào đó.

Quan điểm thù địch là quan điểm của các thế lực phản động, kẻ thù của giai cấp, của dân tộc, của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang phấn đấu xây dựng. Đó là những quan điểm đối nghịch, điên cuồng chống phá cách mạng Việt Nam, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình", nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Quan điểm thù địch do các tổ chức phản động và các cá nhân đưa trên các phương tiện truyền thông phản động, trên internet, mạng xã hội.

Trên thế giới hiện nay có hàng trăm mạng xã hội khác nhau, trong đó Facebook có số lượng người sử dụng đứng hàng thứ nhất, với hơn 2,4 tỷ người. Ở Việt Nam, một quốc gia có dân số khoảng 98 triệu người, nhưng có đến 145,8 triệu thuê bao di động và 68,1 triệu người sử dụng internet. Việt Nam hiện có trên 800 mạng xã hội được cấp phép, đáng chú ý là Facebook, YouTube, Zalo... 

Từ khi du nhập vào Việt Nam năm 1997 đến nay, bên cạnh những mặt tích cực, internet đã và đang trở thành môi trường màu mỡ cho hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Có thể khẳng định rằng, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống phá cách mạng Việt Nam, đặc biệt là thông qua các phương tiện truyền thông phản động và mạng xã hội. Qua đó chúng phủ định các luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc, phủ định các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phủ định, xuyên tạc các giá trị lịch sử dân tộc và thành quả cách mạng; bôi nhọ, hạ uy tín cá nhân các lãnh đạo Đảng, Nhà nước; truyền bá tư tưởng chính trị đối lập; tác động vào quá trình xây dựng pháp luật của Nhà nước ta...

Vì vậy, trong quá trình thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW, cần xác định rõ đâu là quan điểm sai trái, đâu là quan điểm thù địch để khoanh vùng đấu tranh, phản bác, nhất là phân biệt cho được quan điểm sai lầm và quan điểm sai trái.

 Quan điểm sai trái là những quan điểm phản ánh không đúng hiện thực khách quan, tức là sai lầm nhưng trái với đường lối, quan điểm của Đảng. Như vậy, quan điểm sai lầm khác với quan điểm sai trái ở mức độ và tính chất. Ai cũng có thể mắc sai lầm vì năng lực, tư duy, vì phương pháp nhận thực thiếu khoa học, thiếu dữ kiện. 

Nhưng quan điểm sai lầm đối lập với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là sai lầm có phạm vi ảnh hưởng lớn, có tính chất nghiêm trọng, trở thành sai trái cần phải đấu tranh, phản bác.

Quan điểm thù địch bao hàm cả những quan điểm sai trái, nhưng khác nhau về mục đích và mức độ. Mục đích của quan điểm thù địch là có chủ ý, mang tính phá hoại. Cho nên phải kiên quyết đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch.

LVH

ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán thực hiện đoàn kết lương - giáo, đoàn kết giữa những người theo các tôn giáo khác nhau. Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo góp phần tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Chính vì vậy, sau khi nước nhà độc lập, trong Phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết. Theo Người, đoàn kết tôn giáo trước hết, phải lấy mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm điểm tương đồng, dùng cái tương đồng để khắc phục sự dị biệt. Giải phóng dân tộc ở nước ta là mục tiêu trước nhất, là nền tảng cho sự giải phóng giai cấp, là điều kiện để có độc lập, tự do cho các tôn giáo.

          Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra nguyên tắc cụ thể để đoàn kết tôn giáo thành công. Trước hết cần lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm mẫu số chung, dựa trên phương châm “Dân tộc trên hết - Tổ quốc trên hết” và “tất cả do con người, tất cả vì con người”. Lợi ích của từng tôn giáo gắn chặt với lợi ích của cả cộng đồng dân tộc, muốn đoàn kết được đồng bào tôn giáo vào trong khối đại đoàn kết dân tộc thì phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết. Ngoài ra, không chạm đến đức tin của tôn giáo nói chung và của từng tôn giáo nói riêng. Hồ Chí Minh chú ý nhiều đến việc chỉ ra cái chung, cái thống nhất của các tôn giáo với mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời nhấn mạnh, lòng yêu nước và đức tin tôn giáo không có gì mâu thuẫn, trái lại còn gắn bó chặt chẽ với nhau. Bên cạnh đó, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Đây là điều kiện tiên quyết, là nguyên tắc cơ bản để có thể đoàn kết được đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết chung của dân tộc. Bởi, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tức là tôn trọng nhân dân, tôn trọng nhu cầu tâm linh của một bộ phận nhân dân, tôn trọng một yêu cầu về tự do, dân chủ trong đời sống văn hóa, tinh thần của xã hội.

          Hồ Chí Minh còn đề ra các phương pháp đoàn kết tôn giáo trong quá trình hoạt động của mình: Tôn trọng giáo chủ, tranh thủ giáo sĩ và quan tâm đến giáo dân. Trong các tôn giáo, giáo chủ, giáo sĩ là những người không chỉ có sự hiểu biết giáo lý, giáo luật mà còn hiểu biết về tình hình chính trị - xã hội và cũng là những người có đạo đức cao cả nên có tầm ảnh hưởng lớn đối với đồng bào tín đồ tôn giáo. Nếu không nắm được giáo chủ, giáo sĩ thì rất khó thuyết phục được đồng bào có đạo tham gia vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt khác, khai thác các giá trị nhân bản, đề cao sự tương đồng, tôn trọng sự khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh nhận thấy trong bản chất tôn giáo và trong cả tư tưởng của những người sáng lập ra nó chẳng có ai là không mong muốn cho cuộc sống của con người ngày càng tốt đẹp hơn, đạo đức hơn và đều hướng tới những giá trị chung của con người là: Chân - Thiện - Mỹ. Các tư tưởng nhân ái, từ bi, bác ái của các tôn giáo đã gặp gỡ với mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng.

          Tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được Đảng ta kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo với tình hình thực tiễn. Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo nào của nhân dân. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật và tại Điều 6 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực từ ngày 01-01-2018 cũng quy định rõ điều này. Tuy nhiên các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề tự do, tín ngưỡng, dân chủ, nhân quyền để xuyên tạc, kích động,… hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Họ thường vu cáo Việt Nam đàn áp các tôn giáo. Nhưng sự thật, cũng như các quốc gia có chủ quyền khác, Việt Nam chỉ xử lý những đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia./.

VHC

CHỦ TỊCH NƯỚC VÕ VĂN THƯỞNG GỬI THƯ CHÚC MỪNG NGÀNH GIÁO DỤC NHÂN DỊP KHAI GIẢNG NĂM HỌC 2023-2024

 Thân ái gửi các em học sinh, sinh viên, các cô giáo, thầy giáo, cán bộ quản lý, người lao động ngành Giáo dục và các bậc phụ huynh!

Một năm học mới lại bắt đầu. Đây là sự trở lại và cũng là khởi đầu cho những điều đẹp đẽ và đáng nhớ trong đời. Các em, dù ở lứa tuổi nào, cấp học nào, miền núi hay đồng bằng, biên giới hay hải đảo xa xôi... hãy luôn xác định học tập là nhiệm vụ quan trọng của cả cuộc đời.

Mỗi năm học là một hành trình ý nghĩa trên con đường tích lũy tri thức, rèn luyện kỹ năng, trau dồi phẩm chất, xác lập những giá trị tốt đẹp và bền vững để phát triển bản thân.

Thế giới và tương lai các em đang rộng mở. Thầy cô, cha mẹ và đất nước luôn quan tâm, tạo những điều kiện tốt nhất để các em phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất, phát huy sở trường cá nhân, trở nên đặc biệt theo cách riêng của mình và trở thành một phần đáng tự hào của Tổ quốc, dân tộc Việt Nam, tự tin bước ra thế giới với tâm thế của những công dân toàn cầu. Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, “sánh vai với các cường quốc năm châu” chỉ đạt được khi đất nước có những công dân có trí tuệ và phẩm giá, biết yêu gia đình, Tổ quốc, đồng bào mình; sống tử tế và làm việc hiệu quả; dám bảo vệ lẽ phải, dũng cảm và tỉnh táo chống lại những điều xấu, cái ác.

Tôi luôn đặt niềm tin vào các em. Tôi nhìn thấy tương lai tươi sáng của Tổ quốc mình trong sức sống căng tràn và trong những ước mơ, hoài bão cao đẹp của các em.

Đảng, Nhà nước ta luôn xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu. Giáo dục, rèn luyện các em là nhiệm vụ chung của nhà trường-gia đình và xã hội. Một quốc gia muốn phát triển phải có nền giáo dục chất lượng cao và đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho phát triển bền vững.

Tôi mong các cô giáo, thầy giáo hãy luôn giữ vững niềm đam mê, tâm huyết với nghề, bản lĩnh vượt qua mọi trở ngại, khó khăn, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp trồng người cao quý.

Tôi mong các bậc phụ huynh, vì tương lai con em mình, hãy đồng hành với nhà trường và xã hội trong giáo dục, chăm lo cho các em.

Tôi đề nghị các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chăm lo hơn nữa sự nghiệp giáo dục bằng những quyết sách kịp thời và đúng đắn, xây dựng cho được môi trường giáo dục thực sự trong sạch, lành mạnh, an toàn, để các cô giáo, thầy giáo và các học sinh, sinh viên được giảng dạy và học tập trong niềm vui, hạnh phúc, được phát huy tối đa năng lực sáng tạo, góp phần quan trọng thực hiện thành công đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục nước nhà.

Trong tiếng trống tựu trường hân hoan của mùa thu năm nay, tôi thân ái chúc các em học sinh, sinh viên, các cô giáo, thầy giáo, cán bộ ngành Giáo dục và các bậc phụ huynh bước vào năm học mới với khí thế mới, cùng thi đua dạy tốt, học tập tốt, rèn luyện tốt, có nhiều tiến bộ và thành tựu mới.

Dù còn đó những băn khoăn, trăn trở khi bước vào năm học mới, song tất cả chúng ta hãy vững vàng tiến bước, vượt qua khó khăn, kiến tạo những giá trị mới mẻ và thiết thực cho thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước.

Chúc sự nghiệp giáo dục của chúng ta ngày càng đổi mới, nâng cao chất lượng và không ngừng phát triển!

CẢNH GIÁC VỚI CHIÊU BÀI “NHÂN QUYỀN” TRONG THỜI ĐẠI 4.0

         Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang làm thay đổi tư duy, nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người với thế giới. Con người tiếp cận với tri thức nhanh chóng hơn, mở ra khả năng tương tác; phương thức tác động của chính quyền với người dân đa dạng hơn, nhất là thông qua mạng xã hội.

Những năm qua, một trong các yếu tố tạo nên uy tín của Việt Nam trong quan hệ quốc tế là việc Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định quan điểm tiến bộ, tích cực về nhân quyền, đồng thời cố gắng tạo điều kiện để mọi người dân được hưởng các quyền của mình và trên thực tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nhân quyền không ai có thể phủ nhận. Thế nhưng đây cũng là chủ đề nhạy cảm mà các thế lực thù địch và một số tổ chức phi chính phủ được sự giúp đỡ của phương Tây luôn tìm cách lợi dụng nhằm thực hiện những động cơ xấu để can thiệp vào công việc nội bộ nước khác, nhất là các quốc gia có thể chế chính trị XHCN nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản.

Trong mọi giai đoạn cách mạng, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm cách chống phá Đảng, Nhà nước ta bằng nhiều hình thức tinh vi, xảo quyệt với nhiều phương tiện, cách thức khác nhau hòng làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước, gây hoang mang trong dư luận xã hội. Các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ trong thời đại số nhằm tận dụng đa dạng các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là các mạng xã hội, xuất bản báo chí ở nước ngoài, sản xuất băng, đĩa hình chuyển về trong nước. Tài trợ cho một số cơ quan báo chí nước ngoài chống phá Việt Nam (như VOA tiếng Việt, RFA, RFI, BBC Việt ngữ, HRW…) để tuyên truyền quan điểm đa nguyên, đa đảng, hạ bệ thần tượng, gây nghi kỵ, chia rẽ nội bộ, triệt để khai thác các sự kiện chính trị, những vấn đề nhạy cảm để mở các chiến dịch tuyên truyền chống Việt Nam.

Đồng thời các hội, nhóm, tổ chức phi chính phủ nước ngoài không có thiện chí với Việt Nam tổ chức nhiều cuộc điều trần, hội thảo, họp báo, ra tuyên bố, ban hành một số nghị quyết, báo cáo… vu cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam; gắn viện trợ nhân đạo với những đòi hỏi về cải thiện dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do báo chí ngôn luận…. Hậu thuẫn tổ chức phi chính phủ thông qua việc triển khai các dự án với những mỹ từ như “thúc đẩy”, “cải thiện nhân quyền”, khích lệ các đối tượng phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài và số đối tượng chống đối trong nước gia tăng hoạt động. Nhiều tổ chức như Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), Ân xá quốc tế (AL), Freedom House (FH)… trong báo cáo hàng năm, một mặt thừa nhận Việt Nam có chuyển biến tích cực nhưng vẫn cố ý đánh giá tiêu cực về tình hình nhân quyền Việt Nam.

Thông qua các nền tảng số, các thế lực thù địch sử dụng những tin, bài, hình ảnh của báo chí chính thống trong nước, sau đó tô vẽ thêm bớt, đưa ra những nội dung “thật giả lẫn lộn” và thông tin sai lệch để đưa lên mạng xã hội. Chúng lập ra những trang/tài khoản núp dưới danh xưng của các cơ quan Chính phủ, lãnh đạo cấp cao nhằm lôi kéo tâm lý hiếu kỳ của công chúng, đánh vào khoảng trống thông tin (mà báo chí chính thống trong nước chưa đăng tải hoặc cần thời gian kiểm duyệt thông tin); ngụy tạo các bài viết dưới những tiêu đề giật gân liên quan đến những vấn đề đang được dư luận quan tâm…  Những thủ đoạn lợi dụng nền tảng số nêu trên của các thế lực thù địch, phản động, bất mãn ít nhiều đã dẫn dụ và lừa dối được một bộ phận người dân. Những cái “bẫy thông tin” mà các đối tượng thù địch, phản động, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam tung ra cũng đã khiến cho nhiều người nước ngoài không phân biệt được thông tin chính thống và thông tin giả mạo, dẫn đến có nhận thức không đúng, không tốt về Việt Nam.

Do đó, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta xác định: “Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị” là một trong những nội dung trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030. Việc tăng cường, đẩy mạnh các biện pháp đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ của các thế lực thù địch về nhân quyền không chỉ nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ và sự ổn định của đất nước mà còn nhằm bảo vệ hình ảnh Việt Nam trước những thông tin không đúng sự thật.

Hơn lúc nào hết, mỗi người dân Việt Nam cần biết sử dụng chính những thành tựu của cuộc cách mạng 4.0 để làm phương tiện đấu tranh với các thế lực thù địch, phản động. Thông qua nền tảng số, cần quảng bá những hình ảnh chân thực của Việt Nam về nhân quyền, về uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Hiện nay nước ta có quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ; quan hệ kinh tế thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ; có vai trò, vị thế ngày càng nổi bật trong khu vực và trên thế giới; là thành viên của nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế như ASEAN, ASEM, APEC, WTO…Và hơn hết, nước ta luôn tôn trọng nhân quyền, Đảng và nhà nước luôn hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

Như vậy, trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, việc sử dụng các nền tảng công nghệ số để phục vụ tuyên truyền một mặt góp phần thúc đẩy quảng bá về một Việt Nam thân thiện, mến khách, một đất nước được coi là “điểm hẹn của hòa bình”, điểm đến an toàn cho bè bạn quốc tế, mặt khác góp phần phản bác lại các thông tin tuyên truyền sai trái, thù địch đối với Việt Nam cũng như nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam với thế giới.

NT

VIỆT NAM LUÔN TUÂN THỦ HIẾN CHƯƠNG LIÊN HỢP QUỐC VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ

 Tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế là tinh thần nội dung trích dẫn được quy định tại Điều 12 Hiến pháp 2013 của Việt Nam - đạo luật có giá trị cao nhất, của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời cũng là tinh thần quan điểm của Việt Nam đối với cuộc chiến của Nga tại Ukraine.

          Quan điểm trên của Việt Nam cũng như của cộng đồng quốc tế mong muốn Nga và Ukraine sớm tìm ra giải pháp hòa bình và chấm dứt cuộc chiến này ngay từ ngày 24/2/2022, Nga phát động “chiến dịch quân sự đặc biệt” tại Ukraine với cơ sở đưa ra là quyền tự vệ theo Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 và nhằm chấm dứt hành vi bị cho là “diệt chủng” của Ukraine tại vùng Donetsk và Luhansk.

          Cụ thể trong phiên họp khẩn cấp lần thứ 11 của Đại hội đồng Liên hợp quốc được khai mạc vào ngày 28/2, các thành viên đã thông qua Nghị quyết A/RES/ES-11/1 vào ngày 2/3, trong đó thể hiện sự lo ngại lớn với  báo cáo về các vụ việc tấn công cơ sở dân sự, kêu gọi cần có biện pháp khẩn cấp để cứu người dân tại Ukraine khỏi khói lửa chiến tranh và yêu cầu Nga “rút ngay lập tức, hoàn toàn và vô điều kiện tất cả các lực lượng quân sự của mình khỏi lãnh thổ Ukraine trong các đường biên giới được quốc tế công nhận”. 

          Một cuộc bỏ phiếu thông qua Nghị quyết với tỷ lệ 141 phiếu thuận, 5 phiếu chống và 35 phiếu trắng (trong đó có Việt Nam, Cuba, Trung Quốc, Nam Phi, Ấn Độ…). Tại phiên họp, các quốc gia cũng bày tỏ quan điểm của mình thông qua người đại diện. Nội dung các phát biểu này cũng thể hiện lập trường của các quốc gia. 

          Trước đó, ngày 1/3, Đại sứ Đặng Hoàng Giang-Trưởng Phái đoàn Thường trực của Việt Nam tại Liên hợp quốc phát biểu và khẳng định lập trường, quan điểm của Việt Nam rằng, một khi chiến tranh nổ ra chỉ gây đau khổ vô tận cho người dân. 

          Lập trường này của Việt Nam cũng được đề cập trong nội dung phát biểu của đại diện quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Như phát biểu của nữ Đại sứ Noor Qamar Salaiman (Brunei) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì các nguyên tắc cơ bản của pháp luật và tôn trọng pháp luật quốc tế.

          Một lần nữa khẳng định quan điểm của Việt Nam về cuộc chiến của Nga tại Ukraine, bà Lê Thị Thu Hằng-người phát ngôn Bộ Ngoại giao đã khẳng định khi trả lời báo chí về việc bỏ phiếu của Việt Nam trong phiên họp khẩn cấp của Hội đồng Bảo an, “Việt Nam luôn theo dõi sát sao và hết sức quan ngại về tình hình Ukraine” và cho rằng “ưu tiên hiện nay là cần kiềm chế tối đa, chấm dứt các hành động sử dụng vũ lực để tránh gây thương vong và tổn thất đối với dân thường, nối lại đối thoại và đàm phán thông qua tất cả các kênh nhằm đạt được các giải pháp lâu dài có tính đến lợi ích chính đáng của tất cả các bên trên cơ sở phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”.

          Điều này phù hợp tinh thần được quy định tại Điều 12 Hiến pháp 2013 của Việt Nam-đạo luật có giá trị cao nhất, rằng “nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. 

          Bất chấp thực tế đó, thời gian qua, tại một số diễn đàn đã xuất hiện những bình luận cho rằng quan điểm này của Việt Nam là “mơ hồ, không rõ ràng”. Chúng ta cần nhận biết rằng, Việt Nam là quốc gia đã trải qua nhiều cuộc chiến, hiểu rõ sự tàn phá và những thương đau của chiến tranh và như vậy càng hiểu rõ, quý trọng cái giá của hòa bình, khát vọng hòa bình. Những bình luận kích động đã lộ rõ ý đồ nhằm tạo ra những căng thẳng, xung đột trong nội bộ, gây chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước bạn.

          Không dừng ở đó, còn có các bài viết với nội dung nhằm kích động người dân khi đưa ra thăm dò ý kiến người đọc để tìm kiếm cái được gọi là bằng chứng “người dân ủng hộ đa số”, quan điểm của Nhà nước Việt Nam “chỉ là thiểu số”. 

          Thực tiễn đã chứng minh, Nga và Ukraine đều là các đối tác quan trọng của Việt Nam. Tình hữu nghị thân thiết giữa Việt Nam và Nga, Việt Nam và Ukraine luôn bền vững trong thời gian qua và mở rộng trên tất cả lĩnh vực chính trị-ngoại giao, thương mại, văn hóa-xã hội, khoa học-công nghệ… Việc Việt Nam kêu gọi các bên tìm kiếm giải pháp lâu dài trên cơ sở tính đến lợi ích và quan ngại của các bên; tôn trọng pháp luật quốc tế; chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia; quan tâm đến an toàn của cư dân đang sinh sống tại Ukraine cũng như các hoạt động cứu trợ nhân đạo, là phù hợp tình hình hiện nay. 

          Sự lựa chọn này sẽ không làm phức tạp thêm tình trạng căng thẳng, không làm sâu sắc hơn cuộc xung đột và không tạo ra các làn sóng biểu tình ủng hộ một bên ngay trong lòng quốc gia mình. Đây cũng là sự lựa chọn của rất nhiều quốc gia trên thế giới khi bỏ phiếu trắng khi thông qua hai Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Bởi Việt Nam luôn Tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế và quan hệ ngoại giao nhất quán của Việt Nam là chọn chính nghĩa.

NT

GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG CỦA TÁC PHẨM “KIÊN QUYẾT, KIÊN TRÌ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC, GÓP PHẦN XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA NGÀY CÀNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH”

 Nhân dịp kỷ niệm 93 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cho xuất bản tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”. Toàn bộ những giá trị lý luận và thực tiễn mà cuốn sách mang lại có ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt, thể hiện tư tưởng xuyên suốt, nhất quán, kiên định, đồng thời là sự phát triển sáng tạo, góp phần hoàn thiện tư duy lý luận của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đây cũng chính là “vũ khí” sắc bén bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động về công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn phong phú và rút ra những vấn đề có tính lý luận về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam, tác phẩm đã khẳng định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là một việc làm cần thiết, tất yếu, một xu thế không thể đảo ngược. Mục tiêu của đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhằm làm trong sạch Đảng và bộ máy Nhà nước, để phát triển đất nước. Từ đó, tác phẩm chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới, trong đó đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế trên các lĩnh vực, từng bước hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để bảo đảm “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng, tiêu cực.

Để công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt hiệu quả cao nhất, tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, trước hết phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và để đủ khả năng, điều kiện lãnh đạo cách mạng đúng đắn, có hiệu quả, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức mạnh của Đảng về mọi mặt, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn của toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Mặt khác, phải tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, coi đây là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng, là nhân tố quyết định tạo ra sức mạnh của Đảng.

Bên cạnh đó tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn thể hiện tư tưởng nhất quán, kiên định và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng, về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; nêu vấn đề gợi mở, định hướng và tham góp nhiều giải pháp có giá trị quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay, giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững, quán triệt và tổ chức thực hiện sâu rộng, hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, góp phần quan trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch tấn công vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta; giúp cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu đúng về mục tiêu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, từ đó giữ vững, củng cố niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

NT

NHỮNG ĐIỂM CHÚ Ý KHI CHIA SẺ THÔNG TIN TRÊN MẠNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG QUÂN ĐỘI

 Chia sẻ thông tin (sharing information) trên mạng xã hội là việc lan truyền thông tin theo những mục đích nhất định của các cá nhân, tổ chức. Những thông tin trên mạng có tác động rất lớn đối với mỗi cá nhân và cộng động, nếu chúng ta chia sẻ không đúng, chia sẻ những thông tin xấu độc. Vì vậy, đối với mỗi cán bộ, đảng viên cần hết sức chú ý khi tiếp nhận và chia sẻ các thông tin trên mạng xã hội. Quá trình chia sẻ thông tin trên mạng xã hội cần chú ý một số vấn đề sau:

Trước hết mỗi cán bộ, đảng viên cần đứng vững trên lập trường của Đảng, quán triệt và nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, Pháp luật Nhà nước để có cơ sở đấu tranh với các thông tin xấu độc, các quan điểm sai trái và để việc chia sẻ các thông tin không bị các thế lực thù địch lợi dụng.

Mặt khác, cần nắm vững tính năng, tác dụng, phương pháp chia sẻ (share) trên MXH để phát huy một các hiệu quả việc lan truyền các thông tin tốt đẹp, những việc làm cao thượng và các bài viết đấu tranh “chống diễn biến hòa bình” trên mạng xã hội.

Bên cạnh đó, cán bộ, đảng viên cần tìm hiểu chính xác thông tin cần chia sẻ: đó là thông tin về vấn đề gì?; phạm vi thông tin; thời gian cung cấp thông tin. Cần xác định thông tin chính, thông tin có tác dụng bổ trợ, giải thích, thuyết phục, chứng minh... cho thông tin chính, những thông tin mang tính chất tham mưu, tư vấn.

Xác định rõ mục đích chia sẻ thông tin. Chia sẻ thông tin là để thể hiện quan điểm cá nhân, đồng tình hoặc không đồng tình, với một vấn đề nào đó hoặc để mọi người cùng biết về thông tin đó nhiều hơn. Chia sẻ để tuyên truyền hay đấu tranh với các quan điểm sai trái để từ đó lụa chọn hình thức, phương pháp chia sẻ cho phù hợp.

Chú ý lựa chọn đối tượng để chia sẻ thông tin cho phù hợp: Chia sẻ rộng rãi, trên Dòng thời gian của bản thân hay của một người bạn, trong nhóm (Groups) …

Khi chia sẻ cần chú ý nên chia sẻ các thông tin đã được kiểm chứng, theo đúng các phát ngôn của các cơ quan Nhà nước, những thông tin mà nhiều người thấy hứng thú và quan tâm nhưng mang tính tích cực. Chia sẻ các bài viết có giá trị trong đấu tranh chống các thông tin sai trái, xấu độc. Kết hợp chặt chẽ chia sẻ bằng ngôn ngữ với bằng âm thanh, hình ảnh, video… để làm tăng độ thuyết phục và độ tin cậy của thông tin.

Khi chưa chắc chắn về một điều gì đó thì không nên chia sẻ lên mạng xã hội. Không chia sẻ chi tiết các thông tin cá nhân; địa chỉ liên hệ, hình ảnh của cơ quan, đơn vị; những suy nghĩ, cảm xúc thể hiện thái độ tiêu cực, than thở; những thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức, các quan điểm bất mãn, chống đối Đảng, Nhà nước.

Khi nhận thấy thông tin mình chia sẻ bị sai, sẵn sàng xóa và đăng tin đính chính sau khi đã xác minh lại. Đồng thời, cần ứng xử khéo léo với những người chia sẻ thông tin sai. Chúng ta nên có cách phản hồi đúng, chính xác để họ cân nhắc lại vấn đề mình đang nói đến.

Sự phát triển mạng xã hội hiện nay bên cạnh mặt tích cực, cũng mang lại nhiều hệ quả tiêu cực, tác hại không hề nhỏ đối với xã hội, trong đó có quân đội ta. Nhất là trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch, phản động luôn coi mạng xã hội là một trong những phương tiện hữu hiệu để tuyên truyền tác động chuyển hóa tư tưởng nhằm thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội…Chính vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên trong quân đội cần phải có những kỹ năng cần thiết trong chia sẻ thông tin trên mạng xã hội để góp phần nâng cao nhận thức, định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, cho nhân dân trước những thông tin xấu độc, sai trái; góp phần quan trọng giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội.