Công cuộc đổi mới ở Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đã gần 40 năm. Đó là một quá trình khó khăn, lâu dài, vừa tìm tòi, vừa thử nghiệm, mặc dù còn những thiếu sót nhất định, song về cơ bản có thể khẳng định: công cuộc đổi mới của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, không hiểu sao, vì định kiến cá nhân, vì góc nhìn thiển cận, hay vì một lý do gì khác mà một số người xuyên tạc sự thật, “bôi đen” thực tế về “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, một thành quả to lớn của công cuộc đổi mới. Để góp phần làm sáng tỏ đường lối quan điểm của Đảng, tác giả xin nêu và trao đổi ý kiến của mình về một số luận điểm được đăng tải trên các trang mạng trong thời gian gần đây.
Thứ nhất, một số người cho rằng về tên gọi mô hình kinh tế ở nước ta là “kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” không giống ai. Rõ ràng những người này
đã không hiểu gì về lịch sử hình thành và phát triển cũng như những đặc trưng
cơ bản của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là sự phát triển cao của kinh
tế hàng hóa, đặc trưng lớn nhất của kinh tế thị trường là sự hoạt động tự do của
các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh… Tuy nhiên, không phải kinh tế thị trường ở tất cả các nước, các chế độ
xã hội đều giống nhau. Ngoài những đặc điểm chung không thể thiếu, tùy vào điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà kinh tế thị trường ở mỗi nước cũng có đặc điểm
và tên gọi khác nhau như: Kinh tế thị trường tự do Hoa Kỳ, kinh tế thị trường
có điều khiển Nhật Bản, kinh tế thị trường xã hội Cộng hòa liên bang Đức, kinh
tế thị trường đặc sắc Trung Quốc… Vậy nên, tên gọi “kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa” ở Việt Nam vừa thể hiện cái chung là thể chế kinh tế thị trường,
vừa thể hiện cái riêng là định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ
hai, một số quan điểm cho rằng, không thể kết hợp kinh tế thị trường với định
hướng xã hội chủ nghĩa. Theo họ, kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ
nghĩa như “nước với lửa” làm sao có
thể kết hợp được với nhau. Căn nguyên vấn đề nằm ở chỗ những người này cho rằng,
kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản cho nên kinh tế thị trường không thể
định hướng xã hội chủ nghĩa được. Nếu chọn kinh tế thị trường phải từ bỏ hệ tư
tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa
chọn. Nghĩa là họ đã đem đối lập hoàn toàn giữa kinh tế thị trường với định hướng
xã hội chủ nghĩa, phủ định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Việc Đảng
ta lựa chọn mô hình: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải
là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội.
Giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội không có bức tường ngăn cách tuyệt
đối, có thể làm tiền đề, điều kiện cho nhau.
Thứ ba, về tư duy
đổi mới Đảng ta xác định: đổi mới kinh tế trước, rồi mới đổi mới từng bước về
chính trị. Tuy nhiên, một số người lại cho rằng như vậy là mâu thuẫn với học
thuyết Mác, vì rằng, học thuyết Mác luôn khẳng định chính trị là sản phẩm của một
hình thái kinh tế xã hội. Ở đây, chúng ta không thấy có điểm gì mâu thuẫn giữa
tư duy đổi mới của Đảng và học thuyết Mác, trái lại, tư duy đổi mới của Đảng là
sự kế thừa và vận dụng đúng đắn, sáng tạo học thuyết Mác vào điều kiện lịch sử
Việt Nam. Về mặt lý luận, học thuyết Mác chỉ ra giữa kinh tế và chính trị có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó, kinh tế giữ vai trò quyết định
chính trị, chính trị tác động trở lại kinh tế biểu hiện tập trung ở quyền lực
nhà nước và sức mạnh vật chất tương ứng. Về mặt thực tiễn, bài học kinh nghiệm
rút ra từ sự sụp đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô chính là sự
sai lầm trong thứ tự và cách thức tiến hành đổi mới, đó là đổi mới chính trị
trước rồi mới đổi mới kinh tế.
Thứ tư, một số
người cho rằng việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là một sự phản bội
chủ nghĩa Mác. Muốn chỉ ra sự ngây ngô về khoa học của “họ” ta phải quay về lý
luận gốc của C. Mác về điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa. Trong
quyển 1 bộ Tư bản, Mác đã trình bày điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất
hàng hóa. Theo đó, để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại cần có 2 điều kiện, một là, phân công lao động xã hội và hai là, sự tách biệt tương đối về mặt
kinh tế của những người sản xuất. Ở đây cần làm rõ điều kiện thứ hai của sản xuất
hàng hóa để tránh sự lầm lẫn đáng tiếc.
Tóm lại, từ những
luận cứ khoa học và thực tiễn lịch sử kinh tế thế giới cũng như lịch sử kinh tế
Việt Nam cho thấy rằng: phát triển kinh tế thị trường là điều tất yếu đối với tất
cả các quốc gia muốn tồn tại và phát triển. Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam bây
giờ không phải là lựa chọn phát triển kinh tế thị trường hay không, mà là lựa
chọn một nền kinh tế thị trường như thế nào.
TBT
0 nhận xét:
Đăng nhận xét