Thời gian qua, có nhiều quan điểm sai trái, thù
địch xuất hiện cho rằng, sự ra đời tư tưởng và chế độ xã hội chủ nghĩa là một
sai lầm của lịch sử. Rằng, không cần có chủ nghĩa xã hội thì con người vẫn có ấm
no, tự do, hạnh phúc. Đây thực chất là quan điểm phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lênin, phủ nhận con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, phủ nhận bước tiến kiên
quyết và tất yếu của lịch sử nhân loại. Bởi lẽ, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem
lại ấm no, tự do, hạnh phúc thực sự cho con người.
Ấm no, tự do, hạnh phúc là mong muốn, khát vọng
của con người từ khi con người xuất hiện trên trái đất. Tuy vậy, có thể nói, từ
khi xã hội loài người được hình thành cho đến nay, chưa có giai đoạn nào loài
người được thực sự ấm no, tự do, hạnh phúc.
Giai đoạn xã hội chưa thành văn, xã hội nguyên
thủy mặc dù chưa xuất hiện giai cấp, áp bức, bóc lột, con người hoàn toàn bình
đẳng nhưng không có ấm no, tự do, hạnh phúc. Bởi lẽ, thời kỳ này, sức sản xuất
chưa phát triển nên con người chưa thể hiện được vai trò của mình trong lao động
sản xuất, chiếm lĩnh tự nhiên. Năng suất lao động thấp, của cải làm ra chưa đáp
ứng đủ nhu cầu ngày càng cao và phong phú, nên con người chưa thể có no ấm.
Mặt khác từ khi loài người xuất hiện, con người
luôn mong muốn khẳng định định vị trí, vai trò của mình trong sự phát triển thế
giới. Tuy vậy, trong thời kỳ đầu của lịch sử, khả năng hiểu biết của con người
còn hạn chế, nên con người chưa nắm được các quy luật của tự nhiên. Con người gần
như phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Người nguyên thuỷ không nắm được quy luật
tự nhiên, chưa hiểu biết về chính mình nên đã nảy sinh tâm lý sợ hãi, sự phụ
thuộc, bị chi phối, mất đi vai trò chủ thể, tính chủ động, tích cực của chính
mình. Con người thậm chí còn không dám tác động, chinh phục, cải biến tự nhiên.
Khi tôn giáo xuất hiện, niềm tin tôn giáo xuất hiện, làm tăng thêm sự phụ thuộc
vào những lực lượng xa lạ bên ngoài con người. Nếu hiểu tự do là nhận thức được
các quy luật của cái tất yếu thì con người thời kỳ này chưa thể có tự do.
Không có ấm no, không có tự do thì con người
không thể có hạnh phúc. Nói cách khác, con người chỉ hạnh phúc nếu có cuộc sống
no ấm, được làm những gì mình muốn, thoát khỏi sự phụ thuộc, sự chi phối, khẳng
định được vai trò chủ thể của mình trong xã hội.
Khi đồ sắt xuất hiện (khoảng thế kỷ VIII đến thế
kỷ VI TCN), làm cho sức sản xuất phát triển mạnh mẽ. Con người ngày càng khẳng
định được vị trí, vai trò của mình trong thế giới, chinh phục được giới tự
nhiên, tạo ra nhiều của cải để thoả mãn nhu cầu. Tuy nhiên, của cải dư thừa làm
xuất hiện chế độ tư hữu. Chế độ tư hữu xuất hiện làm xuất hiện những tập đoàn
người có lợi ích đối kháng nhau, do sự khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống
sản xuất xã hội, khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã hội, và khác
nhau về phần của cải xã hội ít hay nhiều mà họ được hưởng. Những tập đoàn đó là
những giai cấp trong xã hội. Đối kháng lợi ích giữa những giai cấp dẫn đến những
cuộc đấu tranh giai cấp. Xã hội có giai cấp đầu tiên là xã hội chiếm hữu nô lệ
(xuất hiện khoảng thế kỷ thứ VIII TCN). Ph.Ăngghen viết: “toàn bộ lịch sử đã
qua đều là lịch sử đấu tranh giai cấp”.
Sự biến đổi căn bản nhất
của xã hội loài người từ khi có giai cấp đó là xuất hiện tình trạng áp bức, nô
dịch giữa người với người. Những người có quyền năng không chỉ chiếm đoạt của cải
của cộng đồng tạo nên sự bất bình đẳng, bất công xã hội,mà còn nô dịch lao động
của người khác. Lúc này, đa số những người bị chiếm đoạt, bị áp bức, nô dịch
không thể có ấm no, tự do và hạnh phúc. Những điều này chỉ thuộc về thiểu số
người trong xã hội.
Từ xã hội chiếm hữu nô
lệ, trải qua chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa, điều này cũng
không thay đổi. Ấm no, tự do, hạnh phúc vẫn thuộc về số ít giai cấp thống trị,
đó là địa chủ, quý tộc, tư sản. Đa số các giai cấp lao động, bị áp bức vẫn
không có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Trong tác phẩm Tình cảnh giai cấp công nhân ở Anh
(1844 - 1845), Ph.Ăngghen đã phân tích sâu sắc cuộc cách mạng công nghiệp, nội
dung kinh tế và hậu quả xã hội của nó cũng như những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư
bản. Bằng những chứng cứ sinh động của cuộc sống và những tài liệu phong phú của
chính quyền tư sản, Ph.Ăngghen đã vẽ nên bức tranh hiện thực của cuộc đời những
người lao động. Ông viết: “Tính tham lam bỉ ổi của giai cấp tư sản đã tạo nên
bao nhiêu là bệnh tật! Phụ nữ mất khả năng sinh đẻ, trẻ con tàn tật, đàn ông yếu
đuối xanh xao, nhiều người tàn phế, toàn bộ nhiều thế hệ có nguy cơ bị diệt
vong, bị kiệt sức và ốm yếu, - mà tất cả chỉ là để nhét cho đầy túi của giai cấp
tư sản”.
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng
định, chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa là chế độ tư hữu hoàn bị nhất. Vì vậy, các
giai cấp lao động trong xã hội tư bản bị bóc lột triệt để nhất. Không chỉ áp bức,
nô dịch lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã mở rộng sự áp
bức, nô dịch ở các nước thuộc địa trên phạm vi quốc tế; bóc lột giữa tư bản và
lao động nói chung. “Cùng với giai cấp tư sản, chế độ tư hữu cũng sẽ bị sụp đổ,
và thắng lợi của giai cấp công nhân sẽ vĩnh viễn chấm dứt mọi sự thống trị giai
cấp và đẳng cấp”.
Đến thời kỳ chủ nghĩa đế
quốc, đa số nhân dân lao động thế giới không có ấm no, tự do, hạnh phúc. Vì vậy,
mong muốn có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc tiếp tục là khát vọng của nhân
loại. Tuy nhiên,trong thời kỳ này,cuộc đấu tranh của các giai cấp bị áp bức,
bóc lột đã giành được những thắng lợi to lớn. Cách mạng tháng Mười năm 1917 đã
mở ra thời đại mới, thời đại đấu tranh, giải phóng cho khát vọng của nhân loại,
để xây dựng chế độ xã hội, chế độ xã hội hướng đến sự giải phóng và phát triển
toàn diện con người, hiện thực hoá khát vọng ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân
loại.
Chế độ xã hội chủ
nghĩa, sau là chế độ cộng sản chủ nghĩa xoá bỏ chế độ tư hữu tức là xoá bỏ sự
khác nhau về địa vị của các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội, xoá
bỏ sự khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và xoá bỏ sự
khác nhau về sự thụ hương lợi ích xã hội, tạo cơ sở thực hiện sự công bằng,
bình đẳng cho mọi người trong xã hội.
Theo lý tưởng cộng sản,
mọi đối kháng giai cấp trong xã hội cộng sản sẽ mất đi. Vì vậy, công cụ chuyên
chính của các giai cấp thống trị là nhà nước sẽ mất đi, theo đó sẽ không còn áp
bức, nô dịch giai cấp. Khi áp bức giai cấp bị xoá bỏ thì tình trạng nô dịch dân
tộc sẽ mất đi.
C.Mác và Ph.Ăngghen từng
nói: áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản, sâu xa của áp bức dân tộc; nên hãy
xoá bỏ tình trạng giai cấp này đi áp bức giai cấp khác thì tình trạng dân tộc
này đi áp bức giai cấp khác sẽ mất đi. Khi áp bức dân tộc không còn thì dân tộc
được tự do. Con người trong xã hội đó được giải phóng thực sự. Mặt khác, khi
con người được giải phóng, không bị giới hạn bởi những điều kiện ràng buộc, con
người có thể phát huy tối đa mọi khả năng của mình, khẳng định tốt nhất những
năng lực bản chất của mình. Khi đó con người có thể tạo ra của cải với năng suất
rất cao, đáp ứng mọi nhu cầu của mình. Nghĩa là con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc.
Trong quá trình nghiên
cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế
giới khỏi ách nô lệ”.
Đến hôm nay, chủ nghĩa
xã hội mới đang trong quá trình xây dựng, cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa giành
được thắng lợi hoàn toàn trên phạm vi thế giới. Tuy nhiên, như C.Mác khẳng định:
“chủ nghĩa cộng sản là hình thức kiên quyết của tương lai sắp đến”. “Theo quy
luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Bởi
đó là con đường duy nhất đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân lao động
và cả xã hội loài người./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét