Thứ Ba, 7 tháng 3, 2023

CHỦ ĐỘNG ĐẤU TRANH, GIỮ VỮNG NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY


Khi các thế lực phản động tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, “phi chính trị hóa” quân đội thì âm mưu cơ bản, lâu dài của chúng là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xóa bỏ Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ thấp dẫn đến thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa cách mạng Việt Nam theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.

Để thực hiện âm mưu trên, việc tấn công trên mặt trận tư tưởng, lý luận được coi là “mũi đột phá” hòng làm tan rã niềm tin, gây rối loạn về tư tưởng, lý luận, tạo ra những “khoảng trống” để dần đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhằm chuyển hóa, xóa bỏ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

       Do đó, nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, lý luận trở thành mặt trận nóng bỏng hàng đầu của công tác tư tưởng, lý luận, trực tiếp liên quan đến mục tiêu, lý tưởng, sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước, sự mất còn của chế độ xãhội chủ nghĩa, đến vận mệnh của dân tộc ta. Trong điều kiện bình thường, nếu chúng ta chủ quan, lơ là, không thường xuyên quan tâm đầy đủ, thấu đáo đến công tác tư tưởng, thì khi xuất hiện những tình huống bất thường, những biến động về kinh tế-xã hội... sẽ rất dễ dẫn đến sự phân tâm, hoang mang, dao động, thậm chí mất phương hướng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Trước diễn biến phức tạp của tình hình hiện nay, Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn... Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”.

 

Do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy tốt vai trò của mình trong việc nâng cao tính chiến đấu và sức thuyết phục trong đấu tranh tư tưởng, lý luận. Cần nhận rõ công tác tư tưởng, lý luận có vai trò quan trọng hàng đầu trong hoạt động lãnh đạo và công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho Đảng có nền tảng tư tưởng vững chắc. Bên cạnh đó, cần xây đắp nền tảng chính trị - tinh thần của chế độ và sự đồng thuận xã hội, định hướng và quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Lãnh đạo chỉ huy các cấp cần nắm vững quan điểm, chủ trương của Đảng ta trong đấu tranh trên mặt trận chính trị tư tưởng. Việc làm này cần tiến hành thường xuyên, kiên quyết và triệt để, tránh tình trạng qua loa đại khái. Bởi vì, chỉ cần sự thiếu tập trung, dứt khoát sẽ dẫn đến sự dao động về tư tưởng của quần chúng nhân dân. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà khoa học công nghệ phát triển, việc tung tin sai lệch rất dễ thực hiện.

Cần phải thực hiện trong quá trình đấu tranh trên lĩnh vực chính trị tư tưởng hiện nay là xây dựng lực lượng nòng cốt và cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin cho nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, lý luận. Trong đó, cần tập trung nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy khoa học xã hội và nhân văn, các phóng viên, biên tập viên của các cơ quan báo chí... Cần nghiên cứu tăng cường lực lượng thường trực tham gia đấu tranh trên internet, các trang mạng xã hội. Lực lượng này phải có đầy đủ phẩm chất và năng lực. Trong đó cần được tổ chức có hệ thống, trang bị đầy đủ phương tiện và có kỹ thuật tác nghiệp cao.

                                                                                                                                         HD11

 

TĂNG CƯỜNG SỰ ĐOÀN KẾT NHẤT TRÍ TRONG ĐẢNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


Một yếu tố hết sức quan trọng để phát huy sức mạnh đoàn kết của Đảng là “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi”. Dân chủ đi đôi với kỷ luật và phải phát huy dân chủ rộng rãi. Và chỉ trên cơ sở đó mới mở rộng dân chủ xã hội, tạo môi trường nuôi dưỡng sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm rằng, đoàn kết trong Đảng phải thể hiện bởi sự thống nhất của tư tưởng và hành động. Sự đoàn kết trong Đảng trước hết phải dựa trên nền tảng, đường lối, quan điểm của Đảng. Trải qua các giai đoạn lịch sử của đất nước, từ khi thành lập Đảng đến nay, Đảng ta luôn giữ vững sự đoàn kết, nhất trí trong nội bộ, tạo sự đồng thuận trong Đảng, trong dân; huy động được tối đa trí tuệ của Đảng; đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ với toàn dân; mở rộng được mối quan hệ đoàn kết quốc tế; hình ảnh của Đảng được nhân dân tôn vinh, ngưỡng mộ “là đạo đức, là văn minh”, đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn cho cách mạng Việt Nam.

Thực hiện lời dạy của Người, trong các nhiệm kỳ Đại hội gần đây, Đảng ta luôn xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Là Đảng cầm quyền, Đảng có đoàn kết thống nhất thì hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh Đảng. Đoàn kết của Đảng là hạt nhân, là tấm gương cho cả hệ thống chính trị, là nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết toàn dân tộc.

Hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh CNH – HĐH, thế và lực của nước ta được nâng lên trên trường quốc tế. Tuy nhiên, tình hình thế giới, khu vực và trong nước vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định. Trong khi đó các thế lực thù địch tăng cường chống phá ta trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy hơn lúc nào hết, phải thực hiện đoàn kết, dân chủ trong Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tất cả các lĩnh vực. Mỗi đảng viên cần phát huy trí tuệ, giữ gìn phẩm chất … xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.

HH11

CẢNH GIÁC VỚI THỦ ĐOẠN PHỦ NHẬN CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN TRONG NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (1991) của Đảng ta đã xác định rằng: “Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta”.

Tuy nhiên, từ đó đến nay, đặc biệt là trong giai đoạn từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các đối tượng phản động, cơ hội chính trị, xét lại ở trong và ngoài nước liên tục chống phá, xuyên tạc với những bài viết phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê nin, cho rằng trong nền tảng tư tưởng của Đảng chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh, hoặc không cần lý luận nào.

Có thể nói đây là thủ đoạn hết sức thâm độc của các đối tượng phản động, bởi tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê nin về thực chất là bài bác, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, là tách rời chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế Hồ Chí Minh, tách rời độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phủ nhận vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân, đồng thời phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nước ta đang xây dựng.

Chúng ta thấy rằng, khi ra đi tìm đường cứu nước, tiếp cận với Luận cương Lê nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chỉ có chủ nghĩa Lê nin là đúng đắn nhất, và rằng chủ nghĩa Lê nin là cái cẩm nang giúp chúng ta xác định con đường đúng đắn nhất để giải phóng dân tộc (chủ nghĩa Lê nin là chủ nghĩa Mác được vận dụng vào thời kỳ đế quốc chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản).

Cùng với tinh thần yêu nước, thương dân thì chủ nghĩa Mác - Lê nin là hạt nhân cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế cao cả, là sự kết hợp phong trào yêu nước với phong trào công nhân, phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự khác biệt giữa tư tưởng và con đường cứu nước của Hồ Chí Minh với các sĩ phu yêu nước, các bậc tiền bối muốn cứu nước trước đó dù các vị đó có tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc rất cao.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào ngày 3/2/1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trong cương lĩnh và sách lược vắn tắt do Người khởi thảo: cách mạng Việt Nam trước là cách mạng giải phóng dân tộc, là cách mạng thổ địa, đánh đổ chế độ tư bản, chế độ phong kiến, rồi tiến lên xây dựng xã hội cộng sản (xã hội cộng sản chính là nội dung cốt lõi của học thuyết Mác - Lê nin). Trong các lớp huấn luyện cán bộ ở Quảng Châu (Trung Quốc) thời kỳ đó, Hồ Chí Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác -Lê nin và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin vào con đường giải phóng dân tộc  ở Việt Nam.

Có thể khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác - Lê nin là những nguyên lý, nguyên tắc cơ bản, còn “Đường Kách mệnh” là nhận thức và Vận dụng sáng tạo vào Việt Nam. Tách rời hoặc đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lê nin là không hiểu biết gì về tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc cố hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tỉnh táo, sáng suốt và có thái độ khoa học để khẳng định “chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta”. Tiếp tục “kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”.

Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là trách nhiệm của mỗi đảng viên, người dân Việt Nam. Đó là sứ mệnh thiêng liêng để góp phần bảo vệ đất nước, đập tan các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Muốn vậy phải phát huy hiwn nữa vai trò của mỗi cán bộ, đảng viên cũng như của toàn thể nhân dân.

NP11

LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC LỊCH SỬ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


Chiến tranh lùi xa, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống trong các cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc trong thế kỷ XX. Trong khi Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam vẫn luôn luôn tri ân, ghi ơn những gương hy sinh anh dũng thì vẫn có những đối tượng sẵn sàng quay lưng lại với lịch sử, phủ nhận những đóng góp của các anh hùng, liệt sĩ, thương bệnh binh. Chống lại sự lãng quên, phủ nhận lịch sử, những người có công; phản bác các luận điệu xuyên tạc, gây thù hận dân tộc là điều mà tất cả chúng ta nên làm và phải làm.

Có thể nói dư luận trong nước vô cùng phẫn nộ trước hành vi đáng xấu hổ của một nhóm người tự xưng “Văn đoàn độc lập”, nhóm này hẹn gặp nhau ở một quán cà phê rồi quay video phát tán lên mạng câu chuyện xuyên tạc, bịa đặt, xúc phạm nữ Anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu. Đáng buồn, trong đó có cả những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng đã từng được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trân trọng, tôn vinh. Một câu chuyện khác, cũng trên mạng xã hội lan truyền một số video clip những phát ngôn của một vị tướng quân đội mang tính chủ quan, phiến diện về một số sự việc chính trị nhạy cảm, biên soạn sách đưa ra nhiều thông tin thiếu khách quan, với những sai sót rất nghiêm trọng, khiến dư luận có thể hiểu sai về sự đối xử của Đảng, Nhà nước, quân đội đối với những người đã chiến đấu, hy sinh để bảo vệ Tổ quốc. 

Bằng những thủ đoạn đánh tráo khái niệm, đánh tráo giá trị, làm cho thật giả, trắng đen lẫn lộn, một số người đã cố tình xuyên tạc mục đích, ý nghĩa, tính chất của cuộc kháng chiến mà quân dân ta tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực chất của chiêu trò ấy không gì khác là nhằm phủ nhận công lao, sự hi sinh xương máu của lớp lớp thế hệ người Việt Nam yêu nước trong sự nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước. 

Và thật đáng lo ngại, đã có những bạn trẻ, có thể do thiếu thông tin, thiếu chính kiến, thiếu bản lĩnh hùa theo, chia sẻ, bình luận tiêu cực về lịch sử đất nước. Mạng xã hội ngày càng phát triển, những bài viết quan điểm xấu độc đó nhờ thế đã có cơ hội lây lan rộng hơn, trở thành những mầm mống bám rễ, ăn sâu vào tư tưởng của bộ phận thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước. Tư tưởng thoái hóa, biến chất đó đã bị lợi dụng và trở thành những “nhát dao chí mạng” vào cơ thể Tổ quốc từng chịu bao thương tổn qua những cuộc xâm lăng.

Những trường hợp điển hình cho sự thoái hóa biến chất trong tư tưởng và hành động nêu trên không đại diện cho một bộ phận số đông hay một tổ chức nào nhưng có thể thấy rõ mối nguy hiểm đã và đang đe dọa đến sự ổn định, vững mạnh của Đảng, của đất nước; sự tha hóa, biến chất trong tư tưởng đã len lỏi vào tận sâu hàng ngũ cán bộ, đảng viên, thậm chí nó còn lan đến những vị trí trọng yếu trong bộ máy tổ chức Đảng, điều đó thật nguy hiểm khôn lường! 

Không phải tự nhiên lại có những luồng tư tưởng đó, nó phần lớn nằm trong âm mưu của các thế lực thù địch, của một số đảng viên biến chất, những trí thức lưu vong, chúng tạo dựng sự kiện hoặc định hướng dư luận suy nghĩ theo một hướng khác với bản chất của sự kiện, sự việc nhằm mục đích phủ nhận vai trò của Đảng trong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, thực hiện thành công hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, phủ nhận luôn vai trò lãnh đạo của Đảng trong bảo vệ và xây dựng đất nước ngày nay, gây rối loạn trong tư tưởng cán bộ, đảng viên, nhân dân cũng là mục tiêu mà chúng ngắm tới. Những hoạt động này càng được thực hiện rầm rộ, tinh vi và manh động hơn vào những thời điểm đất nước tổ chức ngày kỷ niệm lịch sử, những ngày lễ trọng đại của đất nước hoặc sự kiện quan trọng sắp diễn ra.
    Hô hào, ủng hộ, thậm chí mượn danh các tổ chức quốc tế để can thiệp là cách mà tổ chức khủng bố Việt Tân tiếp sức cho những đối tượng từng được coi là nhân sĩ, trí thức trong nước nhưng thực chất là kẻ vô ơn. Những đối tượng này dù sinh trưởng trong gia đình truyền thống, được đào tạo bài bản, thậm chí có người từng tham gia cấp ủy đảng nhưng nay “trở cờ”, “quay lưng” với lợi ích của dân tộc; được ve vãn, tán dương bởi những phần tử xấu trên không gian mạng với mục tiêu biến họ thành con bài chính trị để chống phá đất nước trên mặt trận tư tưởng. 

Không chỉ tiếp tay cho những phần tử “vô ơn, trở cờ” trong nước, các tổ chức khủng bố, hội nhóm phản động còn bóp méo lịch sử, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bôi nhọ lãnh tụ, đánh phá vào những trụ cột căn bản trong hệ thống nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng tiêm nhiễm những nhận thức lệch lạc, phủ nhận, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, lôi kéo quần chúng, tập trung vào  những mắt xích yếu trong xã hội hòng làm xói mòn niềm tin giữa nhân dân đối với Đảng, giữa các tầng lớp xã hội với nhau, tạo nên sự phân hóa, phân rã từ nội bộ. Quay lưng với những giá trị của lịch sử không chỉ có tội với lịch sử mà còn đang gây tội với tương lai của đất nước, của dân tộc.

Để có được độc lập, tự do như ngày nay, dân tộc Việt Nam phải đánh đổi bằng những hy sinh, xương máu của thế hệ cha anh mà có được, nếu tham nhũng hoặc có ý định tham nhũng thì sự vô ơn đó lại càng nặng nề hơn. Chưa cần nói đến lý tưởng, chỉ cần biết trân trọng lịch sử, biết ơn những người đã hi sinh cuộc đời mình vì độc lập dân tộc, thì mỗi chúng ta dù sinh ra trong hay sau chiến tranh cũng đều tự mình phải tự soi lại mình xem chúng ta đã sống và làm việc đã xứng đáng với sự hy sinh đó hay chưa. Có soi lại như vậy, chúng ta mới biết mới càng trân trọng quá khứ và tương lai sẽ luôn rộng mở với mỗi chúng ta.

Để gìn giữ và phát huy những giá trị đạo đức cách mạng tốt đẹp, hàng loạt các văn bản thời gian qua đã được Đảng kịp thời ban hành nhằm củng cố, chỉnh đốn về đạo đức, lối sống, ý thức trách nhiệm của người Đảng viên trong một thời gian ngắn như vậy, đó là: Nghị quyết TW7 khóa XII ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Nghị quyết TW 4 khóa XII ngày 30/10/2016 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Quy định số 179-QĐ/TW của Bộ Chính trị ngày 25/2/2019 quy định về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; Chỉ thị số 28 –CT/TW của Ban Bí thư ngày 21/1/2019 về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng; Quy định số 08 - QĐ/TW của BCH TW ngày 25/10/2018 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành trung ương; Quy định số 124 QĐ/TWcủa Ban Bí thư ngày 2/2/2018 về giám sát Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên… 

Con người là gốc của mọi giá trị, nếu con người tốt sẽ có một bộ máy tốt còn ngược lại, cán bộ hư hỏng sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Những kết quả được báo cáo tại Hội nghị toàn quốc Tổng kết 10 năm công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng giai đoạn 2012-2022 cho thấy quyết tâm trong công tác phòng chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta trong 10 năm qua dù rất đau sót khi nhiều cán bộ, đảng viên, kể cả cấp cao vướng vòng lao lý.
    Để nâng cao hiệu quả công tác chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chống sự lãng quên lịch sử, gìn giữ những giá trị cốt lõi của đất nước cần thường xuyên, liên tục rà soát, bổ sung hoàn thiện thể chế, đảm bảo “nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, pháp luật”. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra kỷ luật Đảng - coi đây là công tác trọng tâm, là thanh bảo kiếm sắc bén trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Chú trọng công tác phê bình và tự phê bình, phải thực hiện đúng quy trình, phương pháp, nghiêm túc không nể nang, không “dĩ hòa vi quý”, xuất phát từ động cơ đúng đắn, trong sáng, mang tính chất xây dựng, có tình đồng chí yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, không “nhẹ trên, nặng dưới”. Nâng cao chất lượng công tác tự phê bình và phê bình là liều thuốc hiệu quả để chống “bệnh nhạt Đảng”.

Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự tu dưỡng, tự rèn luyện về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, thực sự giữ gìn và thực hành chuẩn mực đạo đức cách mạng, đồng thời, không ngừng chủ động học tập, nâng cao trình độ, năng lực công tác để kiên định đi theo con đường mà mình đã chọn.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bồi dưỡng, giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ để không có “đất” gieo mầm cho những nguy cơ lãng quên lịch sử, những âm mưu phủ nhận lịch sử, “tự diễn biến, tự chuyển hoá”, luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

TB11

ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG LÀ CUỘC ĐẤU TRANH “KHÔNG CÓ VÙNG CẤM…”


Thời gian qua, với phương châm “nói đi đôi với làm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu sự tác động, sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào”, công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam đạt nhiều kết quả quan trọng, được nhân dân đồng tình, ủng hộ và tạo ra sự cảnh tỉnh, răn đe lớn.

Chỉ trong chưa đầy một năm trở lại đây, có 3 ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII bị cách chức hoặc bị khởi tố và 2 ủy viên Trung ương Đảng khác đang bị đề nghị xem xét, kỷ luật vì có những vi phạm nghiêm trọng, làm thiệt hại lớn về tiền, tài sản của Nhà nước. Dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và sự tham gia của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thoái hóa, biến chất đã được nhân dân hết sức đồng tình, tin tưởng, ủng hộ; uy tín của chế độ ngày càng được củng cố. 

Với âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, trên diễn đàn mạng xã hội, một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí đã lợi dụng công cuộc chống tham nhũng, tiêu cực, chống suy thoái, biến chất của Đảng, Nhà nước ta để xuyên tạc, bóp méo, cho đó là “cuộc đấu tranh thanh trừng nội bộ giữa các phe phái và các nhóm lợi ích”, vu cáo  Đảng, Nhà nước ta đang ở thế “lưỡng nan đối nghịch” với hàm ý chống tham nhũng nhưng ngại thay đổi thể chế chính trị! Lợi dụng một số vụ việc tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên được phát hiện trong thời gian gần đây, đặc biệt là liên quan đến vụ kit test Việt Á, các cá nhân, tổ chức thù địch đã lấy hiện tượng làm bản chất, quy chụp rằng toàn bộ đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước “đang rơi vào tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, thoái hóa, biến chất”. Họ vu cáo rằng, đó là bản chất, là “căn bệnh nan y, kinh niên” của chế độ độc đảng cầm quyền.

Nhiều bài viết còn phủ nhận những kết quả về công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước ta khi cho rằng, Đảng, Nhà nước đã phát động chống tham nhũng, suy thoái nhưng đều thất bại, không thành công, tệ nạn ngày càng gia tăng. Từ đó, số này đưa ra quan điểm, chỉ có thể chống được tham nhũng khi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập” để kiểm soát quyền lực, kêu gọi phải thay đổi thể chế thì mới có thể chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, biến chất.

Điển hình như trên trang RFA (Đài Á châu tự do) ngày 24/6/2022 đã đăng bài viết “Thuốc đặc trị chữa tham nhũng: thay đổi thể chế”. Bài viết đánh lận vấn đề rằng, “Việt Nam từ nhiều năm qua ra quyết tâm chống tham nhũng nhưng vẫn có hàng trăm cán bộ cấp cao bị kỷ luật bằng nhiều hình thức do tham nhũng. Liệu có diệt được tham nhũng trong thể chế hiện hành hay không?”.

Do đó, việc RFA cũng như các cá nhân, tổ chức thù địch, thiếu thiện chí cho rằng, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, biến chất là “căn bệnh nan y”, chỉ xảy ra ở các quốc gia do Đảng Cộng sản lãnh đạo hay ở quốc gia do một đảng lãnh đạo, cầm quyền là hoàn toàn không đúng với thực tế, là sự quy chụp, suy diễn. Âm mưu của chúng là nhằm gây ra tình trạng nghi ngờ, hoang mang, gây lầm tưởng tham nhũng phức tạp là do chế độ một đảng lãnh đạo, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ. Đồng thời, thông qua đó, các đối tượng nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, Nhà nước; gây tâm lý hoài nghi, dao động, thiếu niềm tin.

Thực tế, từ khi ra đời đến nay, Đảng, Nhà nước ta đã luôn nhận thức rõ tính nguy hiểm của tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, biến chất trong đội ngũ cán bộ. Đảng, Nhà nước đã luôn có quyết tâm chính trị cao và kiên quyết phòng, chống, khắc phục tham nhũng, suy thoái, biến chất trong đảng viên và cán bộ Nhà nước. Đảng, Nhà nước ta luôn coi tham nhũng, tiêu cực là “giặc nội xâm”, một trong các nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, cản trở tiến trình phát triển của đất nước, phải kiên quyết đấu tranh loại ra khỏi đời sống xã hội. Đảng ta cũng xác định phải chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng phí, hành vi bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng. Kết hợp giữa xây và chống, phòng ngừa gắn liền với xử lý nghiêm minh mọi hành vi tham nhũng; không có ngoại lệ, không có “vùng cấm” trong chống tham nhũng ở Việt Nam.

Minh chứng rõ cho điều đó là các văn kiện của Đại hội Đảng, các chỉ thị, nghị quyết về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đồng thời, việc xử lý nghiêm minh mọi hành vi tham nhũng, tiêu cực, không có ngoại lệ, không có “vùng cấm” đã được thể hiện rõ kết quả trong báo cáo tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012-2022 được Bộ Chính trị tổ chức vào ngày 30/6/2022 vừa qua.

Trong 10 năm qua, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 8 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang.

Với cách làm của Đảng, Nhà nước ta về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cựcviệc xử lý nghiêm minh mọi hành vi tham nhũng, tiêu cực, không có ngoại lệ, không có “vùng cấm” là cách làm được toàn dân ủng hộ, chỉ có làm được như vậy mới xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh chúng ta tin tưởng rằng, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới sẽ có bước tiến mới, mạnh mẽ hơn nữa, quyết liệt hơn nữa và đạt hiệu quả cao hơn nữa. Tham nhũng, tiêu cực nhất định sẽ bị ngăn chặn, đẩy lùi; góp phần xây dựng Đảng ta, Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và xứng đáng với niềm tin yêu, sự mong đợi của nhân dân. Vì vậy mỗi công dân nước Việt Nam cần ra sức tuyên truyền đồng thời đấu tranh chống các luận điệu xuyên tác của các thế lực thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam./.

TT11

NHẬN DẠNG THỦ ĐOẠN NHÂN DANH PHẢN BIỆN XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


Phản biện xã hội là sự tham gia của cá nhân, các tổ chứcvề một vấn đề, chủ trương, chính sách nào đó của Đảng, Nhà nước nhằm làm cho chủ trương, chính sách đó đầy đủ, đúng đắn, hoàn thiện hơn trong thực tiễn, đáp ứng nhu cầu xã hội, tạo nên sự đồng thuận, phục vụ tốt hơn những vấn đề quốc kế, dân sinh.

Phản biện xã hội thể hiện rõ trong việc nêu ý kiến góp ý, bổ sung, những vấn đề chưa tán thành của người dân đối với những chủ trương, chính sách, quyết định, phán quyết... của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức, cơ quan, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương. Mục đích của phản biện xã hội là làm sáng tỏ bản chất của vấn đề, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, những điểm chưa hợp lý, bất cập của những chủ trương, chính sách, phán quyết, quyết định đó. Như vậy, bản chất của phản biện xã hội là thực hành dân chủ, góp phần bổ sung, sửa chữa những khiếm khuyết, tồn tại, những sai sót, đem lại những lợi ích chính đáng, hợp pháp, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. phản biện xã hội có ý nghĩa chính trị sâu sắc, phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân và hơn thế, nó thể hiện sâu sắc dân chủ XHCN, bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN - quyền lực thuộc về nhân dân. phản biện xã hội tập hợp sức sáng tạo và trí tuệ của các giai tầng, tạo nên sức mạnh nội lực để giải quyết các vấn đề xã hội, là sự thể hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, một mặt còn là thước đo trình độ phát triển, trình độ văn minh Nhận thức đầy đủ ý nghĩa, vai trò của phản biện xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn trân trọng lắng nghe và tiếp thu những ý kiến phản biện của các tầng lớp nhân dân. Điều đó được thể hiện rõ trong quá trình xây dựng Hiến pháp, hệ thống luật, các cơ chế, chính sách về các vấn đề trong đời sống xã hội.

Tuy nhiên, cùng với sự đóng góp thiết thực, có ý thức xây dựng của các tầng lớp nhân dân thì một số thành phần đã lợi dụng PBXH để thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ và nhân dân ta.

Trong âm mưu thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, các đối tượng lợi dụng quyền tự do ngôn luận, lợi dụng phản biện xã hội để tập hợp lực lượng chống đối chính trị, thúc đẩy sự đối kháng trong xã hội, tạo các lực lượng đối lập, nhân danh phản biện để phản đối, chống đối các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Âm mưu của các thế lực thù địch là bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN ở Việt Nam. Đặc biệt là trước và trong quá trình tổ chức đại hội nhiệm kỳ của Đảng, các kỳ bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp, các thế lực thù địch, phản động càng chống phá quyết liệt.

Trong thời gian qua, trên mạng xã hội có không ít người tự cho mình là người “phản biện”, có tư tưởng “tiến bộ”, lấy danh nghĩa phản biện xã hội để nêu những ý kiến về các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, từ những vấn đề lớn của đất nước đến các chính sách, quyết sách cụ thể ở các bộ, ngành, địa phương. Họ đưa ra ý kiến với những cách thức như viết các “thư ngỏ”, “kiến nghị” gửi các cấp, các ngành, gửi các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đăng tải trên mạng xã hội, blog, website cá nhân… Họ trả lời phỏng vấn của các đài, báo nước ngoài với nội dung xuyên tạc chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, thổi phồng, bôi lem những tồn tại, hạn chế của đời sống xã hội. Trên cơ sở nêu vài nội dung mang tính phản biện nhưng lại thể hiện bằng ngôn ngữ miệt thị, chửi bới, công kích, bóp méo sự thật nên về thực chất là lợi dụng để xuyên tạc, chống phá chứ không còn ý nghĩa phản biện. Một số người tự xưng là “nhà lý luận” còn lợi dụng phản biện xã hội để kích động, tuyệt đối hóa tự do, dân chủ, rằng chúng ta đang xây dựng một xã hội “thiếu không gian tự do”, “tự do là không chính trị”, “dân chủ hóa, giải phóng con người là chiếc chìa khóa vạn năng”...

Nguy hiểm hơn, một số trường hợp sau khi rời các vị trí, chức vụ trong Đảng, Nhà nước thì vì tư lợi hẹp hòi, vì động cơ xấu, họ lại lợi dụng danh nghĩa phản biện để đưa ra những quan điểm trái khoáy, lấy cớ góp ý với Đảng, Nhà nước mà mục đích chính là nhằm làm mất niềm tin trong nhân dân, chia rẽ mối đoàn kết trong nội bộ. Đã có không ít vụ việc lấy danh nghĩa phản biện xã hội, họ đã đưa lên báo chí nước ngoài hoặc mạng xã hội nội dung không đúng sự thật, thiếu công tâm, phản biện sai lệch, kéo theo nhiều hậu quả khôn lường, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự, gây hoang mang dư luận. Mục đích của những trường hợp trên nhằm thu hút sự chú ý của người đọc đối với những bài viết của họ và tấn công trực diện vào các chủ trương, đường lối, chính sách, uy tín của Đảng và Nhà nước, phủ nhận tất cả những thành quả mà đất nước đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thậm chí tung ra các bài viết, bình luận bằng các ngôn từ cay độc, vô văn hóa, vô đạo đức…

Rõ ràng, phản biện xã hội nếu được thực hiện một cách có hiệu quả có thể giúp điều chỉnh xã hội từ vi mô tới vĩ mô, làm cho các chủ trương, chính sách ngày càng hoàn thiện, đem lại hiệu quả tốt hơn. phản biện xã hội là biểu thị cho tính dân chủ của xã hội. Nhưng nếu lợi dụng phản biện xã hội để kích động, thổi phồng, xuyên tạc nhằm gây nhiễu loạn thông tin, gây ra sự ngộ nhận, nhầm lẫn trong dư luận khiến nhiều người hiểusai về hiện tình đất nước, hiểu sai về Đảng, Nhà nước thì hành vi đó là phá hoại, cần phải đấu tranh, loại trừ.

Phản biện xã hội không chỉ là sự phân tích, chỉ ra những khiếm khuyết của các chủ trương, chính sách về các vấn đề xã hội mà thông qua phản biện xã hội, khi tạo được sự góp ý, hoàn thiện, nó còn là sự thể hiện đồng thuận xã hội, sự khuyến khích, cổ vũ của xã hội với những chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân. Chính vì vậy, làm tốt công tác phản biện xã hội sẽtạo được sức mạnh to lớn cho các phong trào hành động cách mạng.

Để phản biện xã hội đem lại hiệu quả, ý nghĩa tích cực phải dựa trên nền tảng tri thức, thái độ khách quan, lấy lợi ích của cộng đồng làm mục đích hướng đến. Nếu không, phản biện xã hội sẽ dễ chỉ là ý kiến chủ quan, cảm tính và phiến diện, thậm chí cực đoan, không đóng góp với tiến trình phát triển của xã hội, của đất nước.

Mỗi người dân khi tiếp cận các thông tin được cho là phản biện xã hội đăng tải trên không gian mạng cần trang bị cho mình “bộ lọc” và có chủ kiến khi tiếp cận các vấn đề phản biện. Đặc biệt, với người được các thế lực xấu tung hô, ca ngợi là “nhà dân chủ”, “nhà bất đồng chính kiến”… thì phải cẩn trọng thanh lọc. Không nên vội vàng đọc mà tin ngay vào các ý kiến dạng phản biện của ai đó khi mình chưa xác định được đầy đủ về tính chính xác của thông tin, động cơ của việc nêu ý kiến đó. Do vậy, để nhận diện âm mưu, thủ đoạn lợi dụng phản biện xã hội để gây nhiễu thông tin, chống phá đất nước của các thế lực thù địch, phản động, trước mỗi thông tin được cho là phản biện xã hội, cần chú ý nguồn gốc thông tin đó ở đâu? Thực tế có những thông tin sai lệch không rõ nguồn, chỉ được viện dẫn rất vu vơ hoặc xuất phát từ “nghe nói”, đồn thổi! Đặc biệt, cần cảnh giác với thông tin được đưa ra từ những người vốn có thành kiến, có âm mưu, hành động chống phá Đảng, Nhà nước.

NT11

KIÊN ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG


Quan điểm và chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam nhằm mục đích hòa bình, tự vệ, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay, đã xuất hiện nhiều quan điểm cho rằng, chính sách “bốn không” của Việt Nam đã không phù hợp, thực hiện chính sách “bốn không”, Việt Nam sẽ bị cô lập trong cộng đồng quốc tế. Nội dung và chiêu thức xuyên tạc của các thế lực thù địch chống phá đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng đặc biệt nguy hiểm, Một trong những thủ đoạn đó là chúng cho rằng, Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” là “tự trói tay mình”, là chính sách “không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi”, nếu không thì không thể bảo vệ được độc lập, chủ quyền của đất nước. Đây là luận điệu hoàn toàn mang tính xuyên tạc, suy diễn làm méo mó, làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước và làm giảm uy tín của đất nước ta trên trường quốc tế.

Không thể nói rằng, thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” là “tự trói tay mình”, “cần phải thay đổi”, nếu không thì không thể bảo vệ được độc lập, chủ quyền đất nước. Đây thực chất là nhằm tạo ra sự hoài nghi, hoang mang, dao động, từ đó đẩy nước ta rơi vào sự lệ thuộc, phụ thuộc mới. Cần khẳng định rõ rằng, trong lịch sử từ trước tới nay, nhân dân Việt Nam bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo vệ Tổ quốc luôn dựa trên tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ, tinh thần tự lực tự cường, phát huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.

Chính sách quốc phòng “bốn không”, mà trọng yếu là không liên minh quân sự, là biểu hiện đặc thù của đường lối, chính sách độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng trong bối cảnh lịch sử mới, là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp. Thực hiện chính sách này, chúng ta mới có thể kết hợp và phát huy tốt nhất các nguồn sức mạnh để bảo vệ độc lập, chủ quyền. Nghiêng về bên này hay ngả về bên kia, tức là phụ thuộc vào một nước lớn nào đó đồng nghĩa với việc bị mất độc lập, tự chủ. Bị phụ thuộc, mất độc lập, tự chủ thì vấn đề “bảo vệ độc lập, chủ quyền” cũng không còn ý nghĩa, không còn giá trị.

Liên minh quân sự thường gây nhiều hệ lụy tiêu cực, trong nhiều trường hợp và tình huống cụ thể, có những diễn biến bất lợi, rất khó lường. Thứ nhất, liên minh quân sự dẫn đến gia tăng sự căng thẳng, đối đầu giữa các nước trong liên minh và ngoài liên minh, dễ “biến” những nước ngoài liên minh, nhất là nước lớn trở thành “đối trọng”, thậm chí trở thành “đối thủ”, dù liên minh có tuyên bố là tự vệ, không nhằm chống lại ai; thứ hai, các nước “nhỏ hơn” trong liên minh có thể phải hy sinh hoặc hy sinh một phần lợi ích của mình, nhất là vấn đề độc lập, chủ quyền, quyền tự quyết; thứ ba, các nước “lớn hơn” thường tác động, chi phối các nước “nhỏ hơn”, và thỏa hiệp, “mặc cả” với nhau vì lợi ích chiến lược của họ; thứ tư, dù có liên minh, nhưng không có nước nào lại hy sinh lợi ích của mình chỉ vì lợi ích của nước khác. Trong bối cảnh đó, liệu hòa bình, ổn định, độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc của nước nhỏ hơn có được bảo đảm không? Chắc chắn là không! Những vấn đề tiêu cực và hệ lụy đó của liên minh quân sự trong thế giới đương đại càng trở nên rõ ràng.

Như vậy, với chính sách “bốn không” trong quan hệ quốc phòng, Việt Nam có thể đấu tranh ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm phạm chủ quyền, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Không tham gia các liên minh quân sự không đồng nghĩa với việc chúng ta bế quan tỏa cảng với thế giới bên ngoài. Trong lĩnh vực quân sự, nước ta vẫn là một thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, luôn có sự giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, thực hiện cam kết vì hòa bình, thịnh vượng và phát triển. Bằng chứng rõ ràng nhất đó là, chúng ta đã cử Sĩ quan liên lạc công tác ở Phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và cử lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình ở Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, v.v.

Trong bối cảnh tình hình hiện nay, trước các mối quan hệ rất nhạy cảm của Việt Nam với các nước lớn, nếu chúng ta thực hiện liên minh quân sự với một cường quốc nào đó, thì những hệ lụy tiêu cực trên càng nguy hiểm, trở thành “hợp lực” tác động tổng hợp, đặt hòa bình, ổn định, độc lập, chủ quyền của đất nước và sự tồn vong của chế độ trước nguy cơ rất khó lường. Chính vì vậy, đường lối đối ngoại quốc phòng của Đảng ta hiện nay là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp. Mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nhận thức đầy đủ chính xác nội dung, ý nghĩa và tầm quan trọng của chính sách Quốc phòng “Bốn không” mà Đảng và Nhà nước ta đang kiên trì thực hiện đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình, xu thế phát triển của thế giới hiện đại tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức. Tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với đường lối đối ngoại Quốc phòng. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực thù địch, xây dựng mặt trận chính trị tư tưởng kiên định vững vàng, làm cơ sở vững chắc xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

VD11

VẠCH TRẦN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC TÔN GIÁO CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


Vừa qua, trên trang Bureau CTM Media - Âu Châu có đăng bài viết Đàn áp công giáo kiểu mới của nhà cầm quyền Việt Nam của các thế lực thù địch. Bài viết đã xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam, vu khống một cách trng trợn chính quyền đàn áp tôn giáo nói chung, Công giáo nói riêng của lũ Sa tăng, phản Chúa, phá Đạo. Trước việc hàng loạt các linh mục Công giáo bị tổ chức tôn giáo kỷ luật vì những hành vi trái với giáo lý, giáo luật, gây bức xúc trong giáo dân và xã hội, các thế lực thù địch cho rằng, đó là do chính quyền can thiệp, đàn áp kiểu mới chứ không phải là công việc nội bộ của tổ chức tôn giáo.

Bất kỳ tổ chức, dân tộc, quốc gia trên thế giới đều có luật lệ, pháp luật để quy định việc các tổ chức, cá nhân phải tuân thủ, thực hiện, nếu thành viên nào vi phạm đều bị tổ chức đó xử lý. Trong tôn giáo cũng vậy, mỗi một tôn giáo đều có giới luật, luật lệ riêng để quy định về những điều chức sắc, chức việc, tín đồ của mình được làm hay không được làm, qua đó khuyến khích con người làm điều lành, tránh điều dữ. Từ rất sớm, Công giáo đã xây dựng cho mình một hệ thống các luật lệ rất chi tiết, cụ thể và được thực hiện thống nhất trên toàn thế giới. Về 10 điều răn của Thiên chúa: phải thờ kính Thiên chúa trên hết mọi sự; không được lấy danh Thiên chúa để làm những việc phàm tục, tầm thường; giành ngày chủ nhật để thờ kính Thiên chúa; thảo kính cha mẹ; không được giết người; không được dâm dục; không được gian tham, lấy của người khác; không được làm chứng dối, che dấu sự gian dối; không được ham muốn vợ (hoặc chồng) người khác; không được ham muốn của cải trái lẽ. Mười điều răn này quy lại thành hai điều được coi là tôn chỉ của Công giáo, đó là: Kính chúa, yêu người. Bên cạnh các điều răn, Giáo hội còn quy định các quan hệ đối với đồng đạo, đối với đồng loại và đối với chính bản thân mình và coi đó là những quy phạm đạo đức mà mỗi tín đồ phải thực hiện, cụ thể là: lấy điều thiện mà khuyên người; hướng dẫn cho kẻ mê muội; tha thứ cho kẻ khinh rẻ mình; nhịn kẻ xúc phạm đến mình; răn bảo kẻ tội lỗi; an ủi người lo âu; cầu nguyện cho người sống; cho kẻ đói ăn; cho kẻ khát uống; cho kẻ rách mặc; cho khách ở nhờ; cho người làm thuê; thăm viếng người hoạn nạn; chôn táng người chết; khiêm nhường; không hà tiện; đoan chính; không tị hiềm; siêng năng; ăn uống điều độ.

Đối chiếu với các quy định trên, nếu chức sắc, tín đồ nào vi phạm. tùy theo mức độ mà sẽ biết tín đồ nào vi phạm, tùy theo mức độ mà sẽ bị tổ chức tôn giáo quản lý xử lý kỷ luật.

Trong bài viết, các thế lực thù địch đã nêu tên một số linh mục mà y cho rằng đã bị vô hiệu hóa bởi chính bề trên dòng tu, hay Giám mục địa phậndấn thân một cách ôn hòa, đúng luật pháp và công ước quốc tế cho công lý sự thật, đòi quyền được sống cho những người nghèo thấp cổ bé họng, bị cướp đất cướp nhà... như: Đặng Hữu Nam, Nguyễn Ngọc Nam Phong, Nguyễn Duy Tân, Đinh Hữu Thoại... và một số linh mục giấu tên khác. Những cái tên này thì dư luận đều rõ, họ đã nói và làm hoàn toàn trái ngược với những lời ca ngợi, tán dương của các thế lực thù địch và đồng bọn của y.

Lợi dụng quyền lực của mình, các linh mục này đã có những lời nói, bài viết và việc làm không những vi phạm pháp luật (việc Đời) mà còn vi phạm đạo đức, danh dự của tín đồ, chức sắc Công giáo (việc Đạo). Họ đã nhân danh Chúa để trục lợi, làm những điều phi lý, trái với tôn chỉ kính Chúa, yêu nước, họ không là giáo dân tốt cũng chẳng là công dân tốt. Những linh mục này táng tận lương tâm bán linh hồn cho Juda, Sa tăng, cấu kết với Việt Tân và bè lũ thù địch, phản động cơ hội chính trị, lũ Việt gian lợi dụng các buổi sinh hoạt tôn giáo với độ điên cuồng, ngạo mạn thường xuyên tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước, chính quyền, chế độ. Chúng còn phỉ báng, bôi nhọ, xuyên tạc Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vị tiền nhân, anh hùng liệt sỹ, những người có công với đất nước, cách mạng, xuyên tạc lịch sử, kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Không những thế, những đối tượng này còn kích động, xúi giục, cản trở tín đồ thực hiện nghĩa vụ công dân, vi phạm pháp luật như biểu tình, gây rối, bắt giữ người trái phép, phá hoại tài sản của tổ chức, cá nhân, không cho trẻ em đến trường, thanh niên thực hiện nghĩa quân sự. Chúng đã đẩy những giáo dân vốn hiền lành, nhẹ dạ, vì vâng phục mà vi phạm pháp luật, vướng vào vòng lao lý, làm đảo lộn, phá hoại cuộc sống yên bình của người dân.

Những hành vi đó của chúng đã xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam nói chung, về đạo Công giáo nói riêng, làm cho dư luận trong nước và quốc tế có cái nhìn sai lệch, thiếu thiện chí về đất nước, văn hóa, con người Việt Nam. Những hành vi đó đã gây bức xúc trong xã hội và ngay chính những chức sắc, tín đồ Công giáo đã nhận rõ và có những hành động lên án, đấu tranh, yêu cầu “treo chén”, xử lý nghiêm minh với những linh mục vừa phá Đạo vừa phá Đời này. Chúng đã bị các tố chức tôn giáo xử lý kỷ luật với các hình thức như chuyển địa phận, thôi mục vụ, không còn là linh mục, là Cha, đại diện cho tổ chức tôn giáo nữa. Và khi các cơ quan chức năng có xử lý hành chính hay truy cứu trách nhiệm hình sự về những hành vi vi phạm pháp luật thì chúng chỉ là những tín đồ, công dân bình thường, không còn nhân danh Chúa nữa.

Như vậy, những linh mục Công giáo bị các tổ chức tôn giáo xử lý kỷ luật là vì họ vi phạm vào những lời răn của Chúa, vi phạm quy định của Giáo hội, không xứng đáng với chức vụ được phong phẩm, làm tổn hại đến thanh danh Chúa và Giáo hội. Đó là công việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo trong đạo Công giáo chứ hoàn toàn không phải là sự can thiệp của chính quyền như bài viết “Đàn áp công giáo kiểu mới của nhà cầm quyền Việt Nam” xuyên tạc, vu khống. Vì vậy, phát huy vai trò của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội mỗi chúng ta cần hết sức tỉnh táo để nhận diện và đấu tranh bác bỏ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam.

HH11

 

 

PHÁT HUY PHẨM CHẤT “BỘ ĐỘI CỤ HỒ” THỜI KỲ MỚI


Nói đến phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” chính là nói đến tinh thần tận trung với nước, tận hiếu với dân, sẵn sàng hy sinh, chiến đấu vì “Độc lập tự do cho Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”; sẵn sàng vượt qua thử thách, khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ…

Xuất hiện lúc đầu với tên gọi “Bộ đội ông Ké”, sau đó “Bộ đội Cụ Hồ” đã trở thành cách gọi trìu mến của nhân dân cả nước đối với cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. “Bộ đội Cụ Hồ” là danh hiệu cao quý, chứa đựng sự trân trọng, tin yêu của nhân dân dành cho Quân đội ta. Thực tiễn gần 80 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta đã cho thấy, xuất phát từ bản chất của quân đội cách mạng, với sự giáo dục, rèn luyện của Đảng và Bác Hồ vĩ đại, Quân đội ta đã luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân lên trên hết. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Trong chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, lớp lớp cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đó không chỉ là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mà còn góp phần khắc họa lên hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng dân tộc.

Ai cũng biết rằng, trước đây cũng như hiện nay, cán bộ, chiến sĩ Quân đội là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; luôn nắm chắc tay súng, bảo vệ vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo, thềm lục địa; khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bộ đội Cụ Hồ không quản gian khổ, hy sinh, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì dân, vì nước. Những hình ảnh bộ đội giúp dân “diệt giặc đói, giặc dốt”, chống “giặc nội xâm”, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; cùng nhân dân vượt qua thảm họa thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, làm tròn nghĩa vụ quốc tế..., còn đọng mãi trong lòng nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.

Trong thời chiến trước đây cũng như thời bình hiện nay, người lính sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ nhiệm vụ gì khi Tổ quốc cần, dù ở nơi biển, đảo, biên cương xa xôi, hay có mặt tại các điểm nóng của tâm dịch Covid-19, hoặc dầm mình trong bão lũ miền Trung thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, thậm chí nhịn đói khát, chịu nóng bức, hy sinh; đằng đẵng xa gia đình, người thân để thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, giúp nhân dân Nam Phi, Nam Xu Đăng vượt qua hoạn nạn, giành lại quyền sống làm người. Những việc làm thầm lặng ấy thật vẻ vang; những cống hiến, hy sinh cao cả ấy thật to lớn. Không có kẻ thù nào có thể xâm phạm, hủy hoại điều thiêng liêng ấy; không thế lực nào được phép vi phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của nhân dân; làm hoen ố bản chất, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ.

Thực tiễn gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành đã khẳng định, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta chính là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, thể hiện rõ khát vọng sống vì hòa bình. Dù ở cương vị nào cũng vậy, mọi quân nhân đều son sắt thủy chung với Đảng, với nhân dân; một lòng một dạ “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”, sẵn sàng dâng hiến tuổi xuân và cuộc sống của mình cho cách mạng. Không bao giờ “buông súng”, sa ngã, “lạc đường, chệch hướng” chỉ vì gian khổ, khó khăn, thử thách; chỉ vì sự xuyên tạc, chống phá của kẻ thù; không bao giờ quên lời hứa thiêng liêng đã khắc ghi trong tim mình trước Đảng, Bác Hồ và nhân dân về sự tự nguyện dâng hiến, tận trung với Đảng, trọn hiếu với dân. Chiến công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và thành tựu xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong hơn 35 năm đổi mới đã khẳng định sự tuyệt đối trung thành, niềm tin, danh dự và lẽ sống cao quý của Bộ đội Cụ Hồ. Thế giới có thể đổi thay, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.

Hơn lúc nào hết, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta hiểu rõ ai là bạn, ai là thù, ai đúng, ai sai; ai là đối tác, ai là đối tượng; âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Lớp lớp cán bộ, chiến sĩ trẻ hôm nay tự tin kế thừa, nối nghiệp cha anh cầm chắc tay súng bảo vệ biển, trời thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân, với hành trang và tài sản vô giá Bộ đội Cụ Hồ, cán bộ, chiến sĩ toàn quân ra sức học tập, thể hiện rõ ở tinh thần chủ động, sáng tạo, vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức, tăng cường tiềm lực quân sự quốc phòng. Trước tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, toàn quân đã đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chủ động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phấn đấu thực hiện thắng lợi Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới; có thêm động lực, niềm tin và sức mạnh để tiếp tục xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; viết tiếp bản anh hùng ca “tiến bước dưới quân kỳ”, “vì nhân dân quên mình”, tô thắm thêm màu cờ Tổ quốc, tỏa sáng danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới.

ĐQ11

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN-NỘI DUNG QUAN TRỌNG TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY


Đấu tranh tư tưởng, lý luận là một nội dung cơ bản của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc; là đấu tranh giữa tư tưởng, lý luận vô sản và tư tưởng, lý luận phi vô sản. Cuộc đấu tranh này luôn diễn ra quyết liệt, phức tạp và liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trong chiến lược chống phá Việt Nam, âm mưu cơ bản, lâu dài của các thế lực thù địch là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội (CNXH), xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng, đưa cách mạng Việt Nam theo quỹ đạo chủ nghĩa tư bản. Để thực hiện âm mưu đó, chúng coi tấn công trên mặt trận tư tưởng, lý luận là “mũi đột phá” hòng làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về tư tưởng, lý luận, tạo ra những “khoảng trống” để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhằm chuyển hóa, xóa bỏ tư tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Bên cạnh sự chống phá của các thế lực thù địch, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đang đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải giải quyết cả về lý luận và thực tiễn. Những tác động của tình hình thế giới, khu vực, của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những tiêu cực bởi mặt trái của kinh tế thị trường hội nhập quốc tế; những hạn chế trong Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời, dẫn đến sự xuất hiện các quan điểm, nhận thức khác nhau về con đường đi lên CNXH ở nước ta, thậm chí là sai trái, lệch lạc với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc.

Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. ...Có biểu hiện chưa quan tâm đúng mức bảo đảm phát triển theo định huớng XHCN... Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng, lý luận, vì thế không chỉ là tất yếu, mà đã trở thành mặt trận nóng bỏng hàng đầu của công tác tư tưởng, lý luận, trực tiếp liên quan đến mục tiêu, lý tưởng, sự ổn định, phát triển bền vững của đất nước. Vì vậy, Đảng yêu cầu thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. ...Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đưòng đi lên CNXH ở Việt Nam.

Theo đó, trên mặt trận tư tưởng, lý luận phải kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng sai trái của các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị, khắc phục những nhận thức lệch lạc; đồng thời, tích cực bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ và phát triển những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc, chủ động định hướng giá trị đúng đắn đối với sự phát triển của con người và xã hội Việt Nam.

Phải quán triệt sâu sắc quan đểm: Gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả. Kết hợp giữa nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài; nâng cao khả năng tự phòng, chống của cán bộ, đảng viên và nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị. Phải kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện thụ động, bị động, hoặc chỉ hô hào chung chung, nhưng trên thực tế không đấu tranh.

TA11

 

VĂN HÓA, GIÁ TRỊ SỨC SỐNG VIỆT NAM


Văn hoá Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hoá Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc, theo Hồ Chí Minh “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”

Văn hóa là tổng thể toàn bộ các giá trị tinh thần và vật chất mà con người sáng tạo ra để thích ứng với hoạt động sống, sinh tồn, phát triển của con người. Văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người và xã hội với vai trò là nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực, sức mạnh nội sinh, quyền lực mềm của phát triển bền vững; với các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, giải trí, giao tiếp, dự báo… đặc thù. Văn hóa đã tác động lớn đến việc xây dựng và hoàn thiện nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; đến việc hình thành, hoàn thiện phẩm chất, nhân cách con người. Văn hóa còn góp phần nuôi dưỡng tinh thần và kích hoạt các năng lực sáng tạo tiềm ẩn của con người. Thông qua văn hóa và môi trường xã hội, con người vừa là trung tâm, vừa là chủ thể của phát triển, nỗ lực đáp ứng yêu cầu của phát triển văn hóa, con người, phát triển bền vững đất nước.

Trên thực tế, văn hóa - nền tảng tinh thần - chính là không gian tinh thần, hệ tư tưởng, tình cảm, niềm tin, các quan niệm đạo lý, pháp lý, các chuẩn mực chân, thiện, mỹ, khí thế, khát vọng của quần chúng nhân dân trong xã hội. Nền tảng tinh thần ấy chính là sức mạnh quyền lực mềm của văn hóa, là sức mạnh quyền lực mềm của hệ thống giá trị văn hóa truyền thống và văn hóa đương đại Việt Nam. Hiển nhiên, nền tảng tinh thần của quốc gia, dân tộc và của xã hội, của con người Việt Nam hôm nay có chắc, khỏe, vững mạnh mới có cơ sở để thúc đẩy các nhiệm vụ chính trị khác cùng vận hành và phát triển tốt; mới đủ sức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

 Nghị quyết Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII nêu nhiệm vụ “Khơi dây khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế.” Nhiệm vụ này gắn trong bối cảnh xây dựng văn hóa, con người Việt Nam hiện nay đòi hỏi văn hóa, con người phải kế thừa, phát huy được giá trị tích cực, tốt đẹp của văn hóa truyền thống của dân tộc; tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại, khẳng định được bản sắc, cốt cách, bản lĩnh của dân tộc trong giao lưu, hợp tác quốc tế. Muốn vậy, văn hóa, con người Việt Nam cần phải có đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng các chuẩn mực trong nước, chuẩn mực khu vực và quốc tế; đủ năng lực đón nhận cơ hội, thách thức do toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại. Chỉ có như vậy, văn hóa, con người Việt Nam mới trở thành sức mạnh nội sinh, quyền lực mềm của sự nghiệp phát triển bền vững đất nước. Khi đó, văn hóa, con người Việt Nam mới bảo về được nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác được các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Việc “Khơi dây khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.

 Con người Việt Nam, với cộng đồng các dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể của dân tộc đã tạo dựng được những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần vô cùng phong phú, đa dạng. Những giá trị văn hóa bền vững, trường tồn tiêu biểu cho bản lĩnh, bản sắc, sức sống, phẩm giá của dân tộc, của con người Việt Nam tiếp tục tỏa sáng, soi đường cho các thế hệ hôm nay và mai sau vững bước trưởng thành trong xây dựng, kiến tạo môi trường văn hóa Việt Nam tốt đẹp hơn trong giao lưu hội nhập quốc tế vì phát triển bền vững đất nước.

 Văn hóa, con người Việt Nam hôm nay luôn trong quá trình thức tỉnh, cầu thị, hướng chân, thiện, mỹ vì hạnh phúc cộng đồng chung trên dải đất hình chữ S thân thương và vì cả nhân loại chắc chắn sẽ phát triển bền vững, phồn vinh hạnh phúc. Cuộc chiến bảo về nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới tại Việt Nam sẽ thành công, ổn định, hòa bình, thành một nước phát triển không chỉ là kỳ vọng cho tương lại mà sẽ là thực tiễn của khoảnh khắc hạnh phúc trong thực tại.

Là những công dân Việt Nam hôm nay chúng ta luôn tự hào về nền văn hóa của dân tộc đó là những giá trị tiếp bước cho chúng ta ngày nay vì vậy bản thân mỗi công dân có nhận thức đầy đủ về những giá trị cao đẹp của văn hóa dân tộc, khơi dây sức sống của văn hóa bảo lưu, phát triển và đấu tranh với những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế.

Thời gian qua, các thế lực thù địch tăng cường chống phá cách mạng nước ta trên lĩnh vực chính trị tư tưởng. Chúng cũng không từ bỏ chống phá ta về văn hóa. Xuất hiện những chiêu trò xuyên tạc văn hóa, bôi nhọ văn hóa Việt Nam. Do vậy, giữ gìn những nét đẹp trong văn hóa Việt Nam, đạp tan những chiêu trò xuyên tạc văn hóa Việt là nhiệm vụ hết sức nặng nề hiện nay.

LĐ11

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN VIỆC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG CUA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY


Lợi dụng việc Đảng ta đẩy mạnh công cuộc chống tham nhũng, xử lý hình sự một số cán bộ cấp cao của Đảng, trong những ngày gần đây các thế lực thù địch có nhiều bài viết xuyên tạc công tác phòng chống tham nhũng của Đảng, nhà nước ta. Như trên đài RFA đưa tin với tiêu đề Mặt trái chống tham nhũng. Bài viết cho rằng,cuộc chiến chống tham nhũng rộng khắp của Đảng Cộng sản Việt Nam đang khiến cho nhiều giao dịch kinh tế bị tê liệt, có thể ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, giảm xuất khẩu. Cuộc chiến chống tham nhũng ở Việt Nam từ năm 2016 đến nay khiến nhiều quan chức cấp cao vào tù hoặc đang bị điều tra. Điều này khiến các quan chức Chính phủ khác lo ngại không dám làm, sợ sai, sợ bị điều tra tham nhũng....

Thực chất giọng điệu trên là những tư tưởng phiến diện, lệch lạc được các thế lực thù địch, phản động hậu thuẫn, cổ vũ, đội lốt trách nhiệm với vận mệnh của dân tộc, của đất nước để chống lại công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay. Bởi tham nhũng thực sự là một nguy cơ, vấn nạn, nếu không được ngăn chặn, loại bỏ kịp thời sẽ phá vỡ chiến lược và kế hoạch phát triển, gây thiệt hại vât chất rất lớn cho Nhà nước và người dân; làm suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, gây ra sự bất bình, bức xúc trong dư luận xã hội và nghiêm trọng hơn là làm xói mòn, suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ, gián tiếp, tiếp tay cho những thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Có thể nói, tham nhũng như một loại dịch bệnh nguy hiểm có thể phá vỡ bất kỳ thể chế chính trị nào. Một đảng cầm quyền còn để xảy ra tham nhũng thì nguy cơ đánh mất quyền lực là hiện hữu. Đây là bài học xương máu đã được lịch sử đúc rút. Thậm chí, nếu để tham nhũng tràn lan thì những cán bộ, đảng viên trong sáng, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung của quốc gia, dân tộc sẽ không còn động lực để phấn đấu, cống hiến, hy sinh vì lợi ích chung. Bởi vậy, đấu tranh phòng, chống tham nhũng là môt tất yếu, là vấn đề sinh tử, sống còn, cấp bách của bất kỳ một đảng cầm quyền nào nếu không muốn từ bỏ vị trí lãnh đạo của mình. Như vậy đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không như một số người cố tình xuyên tạc, mà nhằm: “góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại, đặc biệt là góp phần lấy lại và củng cố niềm tin của nhân dân, bác bỏ luận điệu sai trái của các thế lực xấu, thù địch, chống đối”. Trong thời gian qua, công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo, chỉ đạo đã đạt được những kết quả tích cực. Phát biểu kết luận Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 - 2022 đồng chí Tổng Bí Thư nhấn mạnh: “công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, ngày càng đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể, rất quan trọng, toàn diện, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội và thật sự “đã trở thành phong trào xư thế không thể đảo ngược” được cán bộ, đảng viên, nhân dân đồng tình ủng hộ, đánh giá cao.

Những kết quả đấu tranh, phòng chống tham nhũng, tiêu cực đã góp phần củng cố niềm tin, tạo sự đồng thuận trong nhân dân. Nó còn là minh chứng xác đáng để phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về cuộc chiến phòng chống tham nhũng của Đảng và nhân dân ta.

DM11