Thứ Tư, 23 tháng 10, 2019

CHỦ ĐỘNG PHÒNG CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHO CÁN BỘ, CHIẾN SĨ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY


      Thời gian gần đây, khi chúng ta đang chuẩn bị và tổ chức Đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch đang tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình”, mục đích nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên thực tế, bằng hết “chiến dịch” này đến “chiến dịch” khác, họ ra sức vu cáo Đảng Cộng sản Việt Nam là “độc đoán”, dùng chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” và thực hiện “đa nguyên đa đảng” để đánh vào nền tảng tư­ tư­ởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng, đánh vào nguyên tắc tổ chức của Đảng, hòng phá vỡ sự đoàn kết thống nhất trong đảng, kích động chia rẽ Đảng với Nhà nước và đoàn thể quần chúng, đối lập Đảng với nhân dân. Đặc biệt đối với Quân đội chúng chĩa mũi nhọn tiến công vào ý thức, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ hòng làm lung lạc ý chí chiến đấu, làm mất phương hướng chính trị, giai cấp, xa rời nhiệm vụ, tạo tâm lý hoang mang, hoài nghi dẫn đến thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng vào chế độ xã hội chủ nghĩa, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, chia rẽ sự đoàn kết giữa Đảng, Quân đội và nhân dân. Trước tình hình đó đòi hỏi Quân đội ta hơn bao giờ hết phải nâng cao cảnh giác cách mạng phòng chống và sẵn sàng đánh bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó, để cán bộ, chiến sĩ luôn nâng cao cảnh giác đánh bại chiến lược “Diễn biến hoà bình” cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức toàn diện về “Diễn biến hoà bình”, xây dựng ý chí chiến đấu, tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội. Giáo dục chính trị, tư tưởng là hoạt động rất quan trọng của công tác tư tưởng, có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội nói chung, đối với cán bộ, chiến sĩ trong phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình” nói riêng. Khi đề cập vai trò của giáo dục chủ tịch hồ chí minh chỉ rõ: “quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm”[1]. Do đó, nội dung công tác giáo dục phải toàn diện, đồng thời phải sử dụng nhiều hình thức phong phú, đa dạng sát thực tiễn, gần gũi với đời sống học tập, công tác của bộ đội. Thông qua các hoạt động xã hội của cán bộ, chiến sĩ mà giáo dục những kiến thức cơ bản và sâu sắc làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch và những yêu cầu cấp bách của cuộc đấu tranh phòng chống những âm mưu thủ đoạn đó, kịp thời vạch trần bản chất phản động, nguy hiểm của nó, từ đó nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, quan điểm mơ hồ, dao động về tư tưởng trước âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, xây dựng và củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh việc giáo dục nâng cao nhận thức cũng cần trang bị cho cán bộ, chiến sĩ những kiến thức cơ bản về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như các vấn đề khác do cuộc sống đặt ra. Cung cấp cho cán bộ, chiến sĩ hiểu biết nắm vững truyền thống của dân tộc, Quân đội và đơn vị, các giá trị tiêu chuẩn thang đạo đức về chân, thiện, mỹ và những kiến thức cơ bản về giao tiếp, ứng xử. Sự hiểu biết đó chính là cơ sở, điều kiện để cán bộ, chiến sĩ chủ động khi tiếp nhận thông tin họ biết cách phân tích, đánh giá từ đó tích cực đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực lạc hậu, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, đồng thời giúp cho việc tuyên truyền vận động nhân dân phòng chống “Diễn biến hoà bình” có hiệu quả.
Hai là, nâng cao bản lĩnh chính trị tư tưởng, củng cố và giữ vững trận địa tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội. Bản lĩnh chính trị là sản phẩm tổng hợp của những tri thức, tình cảm, nhận thức và hành vi chính trị của mỗi chủ thể. Biểu hiện ở khả năng tự quyết định những suy nghĩ và hành vi chính trị một cách độc lập, sáng tạo và có hiệu quả trong các tình huống phức tạp về chính trị, không dao động thay đổi trước những tác động từ bên ngoài. Bản lĩnh chính trị không tự phát hình thành mà là quá trình hoạt động tự giác, có mục đích, được cấu thành bởi sự thống nhất biện chứng của ý thức chính trị, nhận thức chính trị, tình cảm chính trị và hành vi chính trị. Do đó, yêu cầu các cấp uỷ phải nắm chắc và đánh giá đúng tình hình tư tưởng của bộ đội có chủ trương biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời. Trước hết, tập trung lãnh đạo nâng cao chất lượng học tập lý luận chính trị và chất lượng sinh hoạt các tổ chức, đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức trong quản lý, giáo dục cán bộ, chiến sĩ đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động ngăn ngừa, đấu tranh phòng chống âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình”, làm tốt công tác quản lý tình hình chính trị nội bộ, kịp thời giải quyết vướng mắc những vấn đề nảy sinh về tư tưởng trong đơn vị, xây dựng các tổ chức vững mạnh hoạt động đúng chức năng, thường xuyên coi trọng nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ và khả năng phòng chống “Diễn biến hoà bình” của cán bộ, chiến sĩ.
Ba là, chăm lo xây dựng củng cố các tổ chức trong đơn vị vững mạnh toàn diện, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện sai trái. Tổ chức quân đội là một tổ chức chặt chẽ, có hệ thống hoạt động theo mục đích thống nhất, có kỷ luật tự giác nghiêm minh. Do đó, việc xây dựng các tổ chức là một yêu cầu, một nhân tố không thể thiếu được bảo đảm xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Trong chiến lược “Diễn biến hoà bình” các thế lực thù địch tập trung chống phá quyết liệt các tổ chức trong Quân đội hòng làm Quân đội ta suy yếu. Các tổ chức đó bao gồm: tổ chức Đảng (lãnh đạo), tổ chức chỉ huy và tổ chức quần chúng. Các tổ chức này có vị trí, vai trò, nội dung và phạm vi hoạt động khác nhau nhưng có chung mục đích là quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ để góp phần xây dựng con người, xây dựng tổ chức vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Trước hết phải tập trung xây dựng tổ chức Đảng. Bởi vì, đây là tổ chức lãnh đạo chi phối toàn bộ đến các tổ chức khác, các tổ chức khác mạnh yếu đều tuỳ thuộc vào Chi bộ, Đảng bộ cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở trong quần chúng, Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều được thực hiện tốt, mọi công việc đều tiến bộ không ngừng, trái lại Chi bộ kém thì công việc không trôi chảy”[2]. Thực tiễn cho thấy nếu đơn vị nào yếu kém hoàn thành nhiệm vụ thấp thì tổ chức Đảng ở đó thường mất đoàn kết, không phát huy được vai trò lãnh đạo. Đòi hỏi, các Cấp ủy tổ chức đảng các cấp cần phải quán triệt và chấp hành nghiêm Quy định 104-QĐ /QUTW ngày 16/2/2017 của Quân ủy Trung ương “một số vấn đề cơ bản về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam”; Quyết định 99-QĐ/TW ngày 3/10/2017 của Ban Bí thư về việc ban hành hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; Kết luận 18-KL/TW ngày 22/9/2017 của Ban Bí thư “về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong tình hình mới”. Duy trì nề nếp, chế độ sinh hoạt, đổi mới phong cách, phương pháp công tác. Song song với xây dựng tổ chức Đảng là xây dựng tổ chức chỉ huy, trong tổ chức chỉ huy đội ngũ cán bộ có vai trò hết sức quan trọng quyết định đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ ở đơn vị. Chủ tịch hồ chí minh đã dạy: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém”[3]. Do đó, để củng cố nâng cao hiệu lực của tổ chức chỉ huy, chăm lo bồi dưỡng phẩm chất chính trị, năng lực công tác cho đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì. Trước hết, phải thường xuyên nâng cao trình độ nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ Quân đội, đơn vị và nhiệm vụ chức trách được phân công. Nêu cao tinh thần đoàn kết thống nhất, không ngừng nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực quản lý chỉ huy, năng lực tiến hành công tác đảng, công tác chính trị. Kiên quyết chống những biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng, quân phiệt xa rời quần chúng, gây mất đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân. Thường xuyên quan tâm xây dựng tình đồng chí, đồng đội, cấp trên và cấp dưới. Để phát huy tốt vai trò của tổ chức chỉ huy, trước hết đội ngũ cán bộ phải luôn nêu cao trách nhiệm, chủ động, gương mẫu nói đi đôi với làm được quần chúng tín nhiệm. Đối với tổ chức quần chúng, trước hết là đoàn thanh niên có thể khẳng định rằng tổ chức quần chúng có vai trò to lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ của Quân đội. Do đó, để xây dựng tổ chức quần chúng đặc biệt là tổ chức đoàn thanh niên cần phải giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Hồ Chí Minh lòng yêu nước và truyền thống cách mạng, truyền thống Quân đội, ý thức công dân, trách nhiệm quân nhân, giáo dục đạo đức lối sống cho họ nhằm hướng mọi hoạt động vào thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, lao động sản xuất. Góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị, phát huy vai trò xung kích của đoàn viên thanh niên trong thực hiện nhiệm vụ, đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh tạo tâm lý vui tươi, phấn khởi trong thực hiện nhiệm vụ.
Bốn là, chủ động phối hợp với địa phương xây dựng địa bàn vững mạnh, kịp thời ngăn ngừa và đập tan những hành động chống phá của các thế lực thù địch. Tham gia xây dựng địa phương vững mạnh là một nhiệm vụ của các đơn vị trong Quân đội, một nội dung hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phòng chống chiến lược “Diễn biến hoà bình” bạo loạn lật đổ, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, để xây dựng cơ sở vững mạnh phải chú ý tập trung xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện, giữ vững sự ổn định về chính trị. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang địa phương để phá tan mầm mống gây ra “diễn biến” hoặc “tự diễn biến”, lôi kéo, chia rẽ gây mất đoàn kết quân dân, ngăn ngừa và phá tan các ổ nhóm, tệ nạn xã hội khác làm trong sạch địa bàn. Tăng cường củng cố và phát huy hiệu lực của hệ thống chính trị địa phương bao gồm: Tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể và phong trào cách mạng của quần chúng để tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân theo phương án thống nhất giữa đơn vị với địa phương. Góp phần cùng với địa phương phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần và các hoạt động xã hội nhằm nâng cao dân trí, mở rộng dân chủ, giảm bớt chênh lệch phân hoá giàu nghèo về đời sống vật chất tinh thần giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi với miền ngược. Phối hợp chặt chẽ với địa phương để nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện xử lý những nguồn tin, dư luận xấu, thường xuyên nắm chắc tình hình trên địa bàn, nắm chắc những đối tượng, nhất là những đối tượng phức tạp khả nghi, phát hiện những mâu thuẫn, kịp thời ngăn chặn không để xảy ra nhất là những “điểm nóng” với phương châm kiên trì vận động, thuyết phục củng cố và tham gia xây dựng tổ chức đảng, chính quyền đoàn thể, tìm ra nguyên nhân khắc phục không để mâu thuẫn phát triển nảy nở trong phạm vi nội bộ các đơn vị đóng quân.
Tóm lại: “Diễn biến hoà bình” là một thủ đoạn chống phá nguy hiểm toàn diện của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, đang được xúc tiến mạnh mẽ đe dọa đến an ninh quốc gia. Trong đó, Quân đội là một mục tiêu mà địch tập trung chống phá ngày càng quyết liệt, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, đây được coi là mặt trận nóng bỏng nhất. Bởi vậy, hơn lúc nào hết cán bộ, chiến sĩ Quân đội phải nhận thức rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “Diễn biến hoà bình”, nhận rõ được cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị là hết sức quyết liệt gay go và phức tạp. Từ đó, phải thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng để phòng chống “Diễn biến hoà bình” có hiệu quả, vừa là để bảo đảm căn bản loại trừ từng bước nguy cơ “tự diễn biến” và các nguy cơ khác nhằm xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.

TÌM HIỂU VỀ TÍNH CHẤT NGUY HIỂM CỦA CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG


  Trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch quan tâm nhất là kích động “dân chủ”, “nhân quyền”, “vấn đề dân tộc”, “vấn đề tôn giáo”, và đặc biệt là làm cho chúng ta tự diễn biến, tự chuyển hoá. Chúng coi đó là những đòn đột phá khẩu, là những mũi xung kích để chọc thủng mặt trận chính trị, tư tưởng của chúng ta. Tính chất nguy hiểm của âm mưu “diễn biến hoà bình” biểu hiện ở chỗ:
Một là, với ý đồ làm tan rã niềm tin, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xem việc đánh phá nền tảng tư tưởng, xuyên tạc quá khứ, bôi đen lãnh đạo…làm cho xã hội hỗn loạn về chính trị, tư tưởng, mất định hướng chính trị, tạo ra thế đứng cho các lực lượng phản động trong nước, gây áp lực chính trị của quần chúng đòi thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ.
Hai là, với chiến thuật “viên đạn bọc đường”, “mưa dầm thấm lâu”, “ngoại giao thân thiện”, “chi phối đầu tư”, “khoét sâu nội bộ”, cùng những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với những luận điệu mị dân, lừa bịp dễ làm cho đối phương mất cảnh giác, dễ bị cám dỗ, mất phương hướng chính trị, không phân biệt đúng, sai, giả, thật, tạo ra “khoảng trống” về chính trị, tinh thần để dể dàng truyền bá các quan điểm tư sản và đánh thẳng vào nội bộ ta, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kích động lật đổ và bạo loạn chính trị.
Ba là, với nhiều thủ đoạn khác nhau, các lực lượng thù địch làm mê muội con người bằng các loại văn hoá phẩm độc hại, thúc đẩy lối sống hưởng lạc, thực dụng, quên quá khứ, bàng quan chính trị, xa rời lý tưởng, tạo ra một tầng lớp đông đảo quần chúng, đặc biệt là lớp trẻ được “phi chính trị hoá” để khi có điều kiện thì tập hợp lực lượng xấu, gây áp lực chính trị và cướp chính quyền.
Bốn là, thực hiện chính sách lôi kéo, thông qua các nước đồng minh, các tổ chức phi chính phủ, qua giao lưu, hợp tác trên các lĩnh vực: văn hoá, giáo dục, khoa học, nghệ thuật, báo chí…để thâm nhập, thu thập tin tức tình báo, mua chuộc cán bộ, chuyển hoá tư tưởng, cài cắm lực lượng vào các tổ chức của chúng ta, móc nối các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị để chống phá ta.
Năm là, với hình thức tung tin đồn nhảm, tạo dư luận và áp lực xã hội, dưới chiêu bài “chống tham nhũng”, “bảo vệ tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, đưa ra những lời hứa mị dân…để gây tâm trạng mơ hồ, mất cảnh giác, cả tin của một số người, từ đó cô lập các lực lượng trung kiên cách mạng; phân hoá những người còn lừng chừng, thiếu chính kiến, thiếu thông tin; lôi kéo, kích động những người có tâm trạng bất mãn, những lực lượng xấu trong xã hội để gây bạo loạn lật đổ chính quyền.
Tóm lại, sự nguy hiểm của âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng là chúng phá rã niềm tin, đánh từ trong đánh ra, làm cho “cộng sản tự diệt cộng sản”, chúng dùng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”…để tạo cớ can thiệp vào nội bộ ta. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ chế độ chủ nghĩa xã hội, là do chủ nghĩa đế quốc đã lợi dụng những sai lầm về chính trị trong đường lối cải tổ, để đẩy mạnh “diễn biến hoà bình” trên mặt trận chính trị, tư tưởng. Tổn thất nặng nề đó của chủ nghĩa xã hội là bài học cảnh giác cách mạng sâu sắc của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chúng ta. Càng bộc lộ rõ tính chất nguy hiểm của chiến lược “diễn biến hoà bình”- bạo loạn lật đổ mà các thế lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá đối với cách mạng nước ta.


Thứ Ba, 22 tháng 10, 2019

BUÔN THAY CHO MỘT VỊ TƯƠNG “CÔNG THẦN

       Bệnh “công thần” là một căn bệnh tự diễn biến ở mỗi con người, nhất là những người đã có một chút thành tích đóng góp cho một nhóm người, một tổ chức. Tác hại của căn bệnh này là có thể bóp méo hình ảnh đẹp của chủ nhân và xói mòn niềm tin của những người khác đối với người đó. Nhưng buồn thay một điều là chính chủ thể “công thần” lại khó nhận ra mà ngày càng trở nên hoang tưởng với những điều mình đang làm.
Gần đây, một vị tướng, người đã từng đem đến niềm tin chiến thắng cho lớp lớp thanh niên tham gia chiến đấu dành độc lập dân tộc lại bị căn bệnh “công thần” xâm lấn - đó là thiếu tướng Lê Mã Lương, người đã trở thành một biểu tưởng sáng ngời bởi câu nói: “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”.
Chúng ta không khó khăn khi tiếp cận hình ảnh của ông Lê Mã Lương trên một số diễn đàn mang danh các cuộc “hội thảo” với những lời nói vô cùng hàm hồ dưới sự cổ súy của những gương mặt thường xuyên chống đối chính quyền. Không khó để chúng ta có thể nhận ra những gương mặt xuất hiện trên những đoạn clip là nhưng thành phần bất mãn mượn danh các nhà khoa học. Những lời độc thoại của ông Lê Mã Lương được  phát ra có vẻ rất hùng hồn, mãnh liệt. Nhưng than ôi ! ông đã không nhận ra chính những lời lẽ đó đã và đang xóa nhòa đi những hình ảnh đẹp đẽ của ông đã được bao thế hệ thanh niên, học sinh dành cho ông. Ông hoang tưởng rằng những thành tích và danh hiệu mà ông có được là của cá nhân.
 Càng phát biểu thì ông lại trở nên hoang tưởng đến không còn nhận ra mình là ai nữa. Thậm chí, ông còn khoác trên mình bộ quân phục với hàm tướng khi khêu gợi nỗi đau của những người dân Việt Nam, ông còn dám sỉ nhục đến sự hy sinh bất khuất của những chiến sĩ đã ngã xuống vì sự toàn vẹn của lãnh thổ, nền hòa bình của Quốc gia, dân tộc - một điều thiêng liêng đã ghi vào trái tim, thấm đến từng giọt máu của người dân Việt Nam. Ông tưởng rằng chỉ với vài ba câu nói hàm hồ đó mà làm lung lạc được niềm tin của người dân Việt Nam bất khuất. ÔNG ĐÃ LẦM - thành tích của ông chỉ là một việc nhỏ trong vô vàn sự hy sinh, mất mát của hàng vạn liệt sĩ đã ngã xuống để có được ngày hôm nay, để có điều kiện cho những người may mắn ở lại hưởng thụ những hạnh phúc của một đất nước hòa bình, trong đó có cả gia đình của ông.
Nếu ông không sớm tỉnh ngộ, một điều chắc chắn rằng lịch sử Việt Nam sẽ phán xét danh dự của ông. Người dân Việt Nam sẽ không tha thứ cho một “công thần” như ông và rồi kẻ thù cũng không bao giờ dung nạp một người bán nước như ông. Buồn thay cho một vị tướng “ công thần”.

CẢNH GIÁC VỚI “CHIÊU TRÒ” HỘI THẢO PHẢN QUỐC


 Tìm mọi cách với mọi hình thức để chống phá Đảng, Nhà nước là âm mưu xuyên suốt của các thế lực thù địch. Mục đích là nói xấu Đảng, bôi nhọ danh dự của các lãnh đạo Đảng, nguyên thủ Quốc gia bằng những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Gần đây, lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ, các trang mạng xã hội, các thế lực đã tiến hành lôi kéo, xúi dục một số thành phần bất mãn, trong đó có cả một số người có ảnh hưởng đến xã hội để đưa lên diễn đàn, thay chúng nói lên những lời lẽ phản bội, bôi nhọ lịch sử Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở những bài viết nói xấu Đảng, Nhà nước, chúng còn tổ chức các cuộc hội thảo để phát tán gồm cả hình ảnh và lời nói kích động  nhằm gây rối tâm lý của nhân dân. Chúng ta có thể nhận biết trên một số nội dung của những cuộc hội thảo mang danh “Khoa học”:
Về hình thức:
Các thế lực tổ chức một số buổi diễn đàn tại những địa điểm gần trung tâm thành phố, nơi diễn ra nhiều sự kiện chính trị xã hội quan trọng của đất nước. Hình thức trang trí gồm có đầy đủ các phông nền, bàn ghế và hình thức của một buổi diễn đàn “khoa học” để gây nên sự chú ý như một sự kiện chính trị thu hút người quan tâm. Thông qua các kênh báo hình (youtube) đặt ở nước ngoài, ngoài sự kiểm soát của Nhà nước để phát tán hình ảnh và lời lẽ kích động.
Về thành phần tham gia:
Để thực hiện buổi “hội thảo” này, chúng đã tìm hiểu, mua chuộc mời đến những người có biểu hiện bất mãn, thường xuyên tham gia biểu tình, hoặc có ý kiến chống đối chính quyền địa phương. Đặc biệt, với những cuộc “hội thảo” này, chúng mời những gương mặt tiêu biểu, thậm chí là những người có quân hàm tướng trong Quân đội (như Lê mã Lương) để phát biểu gây sự thu hút đối với người xem.
Về Nội dung:
Các thế lực thù địch tập trung bàn luận về một số vấn đề nhạy cảm của xã hội, nhất là xoáy vào vấn đề phức tạp ở Biển Đông nhằm gây ra sự bức xúc trong nhân dân. Chúng hướng vào những nỗi đau của dân tộc và đổ lỗi cho Đảng, Nhà nước, đả kích chính sách của Đảng thành ý định của cá nhân nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Làm tổn thương niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước từ đó gây ra tâm lý hoang mang trong nhân dân.
Với mỗi người dân Việt Nam yêu nước, chúng ta phải luôn tỉnh  táo, cảnh giác với những chiêu trò phá hoại nham hiểm của các thế lực thù địch. Nhất là trong thời đại công nghệ phát triển như vũ bão. Việc đọc, xem cần luôn luôn có sự phân tích, nhận định, phân biệt rõ đúng sai không để kẻ thù lợi dụng làm ảnh hưởng đến bầu không khí hòa bình mà các thế hệ cha ông của chúng ta phải đánh đổi bằng xương máu mới xây dựng nên. Mỗi người dân Việt Nam mà trước hết là những người quân nhân cách mạng, những đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam là một pháo đài chính trị, tư tưởng vững chắc không kẻ thù nào lay chuyển. 

MỘT SỰ GÁN GHÉP VÔ LÝ VỀ VIỆC “Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ”


       Thời gian qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là mạng Internet có đăng tải thông tin về việc Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam theo các quan trắc quốc tế thì đều nằm trong nhóm là một trong những thành phố ô nhiễm không khí nhất thế giới. Trước những thông tin trên, một số trang mạng phản động nhanh chóng đăng các bài viết xuyên tạc với lý do quen thuộc: "Chính quyền không có một giải pháp nào để phòng chống; thể hiện sự quan liêu, kém chuyên môn". Mục đích của các luận điệu này nhằm đổ lỗi cho chính quyền, hướng sự "lo lắng, tức giận" của dư luận vào chính quyền. Điều này thực sự là điều vô lý, bỉ ổi của phản động, thể hiện như sau:
          Thứ nhất, chính quyền không phải là nguyên nhân gây ra "ô nhiễm không khí". Thực tế cho thấy, tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, hai thành phố đang phát triển bậc nhất ở Việt Nam với đa dạng ngành nghề, lĩnh vực, đặc biệt là công nghiệp và dịch vụ. Điều này thể hiện ở việc có rất nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất ở hai thành phố này. Đồng thời, đây đều là hai thành phố đông dân nhất Việt Nam cộng với lưu lượng phương tiện cá nhân lớn gây ra ô nhiễm không khí.
          Thứ hai, việc giải quyết ô nhiễm không khí không phải là câu chuyện một sớm, một chiều và không phải là câu chuyện riêng của bất kì cá nhân, tổ chức, cơ quan, ban, ngành nào. Thậm chí có thể thấy đây không chỉ của Việt Nam mà là của các thế giới. Hơn nữa, Việt Nam là một đất nước đang phát triển, cùng với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay thì việc ô nhiễm không khí là không thể tránh khỏi. Vì vậy, việc giải quyết ô nhiễm ko chỉ trách nhiệm của tất cả mọi thành viên trên trái đất này mà còn là của tất cả quốc gia, mọi dân tộc. Vì vậy, việc "sủa càn" rằng chính quyền Việt Nam không có giải pháp là sự gán gép vô lý. Đó là chưa kể, chính quyền đã và đang có những giải pháp để giải quyết phần nào vấn đề này như hạn chế phương tiện cá nhân, chuyển các nhà máy công nghiệp ra khỏi thành phố…
          Tóm lại, những luận điệu xuyên tạc, gán ghép nguyên nhân ô nhiễm môi trường không khí cho chính quyền là điều không thể chấp nhận được, thể hiện sự bỉ ổi của bè lũ phản động. Người dân cần nhận thức rõ bản chất vấn đề, không để các đối tượng xấu lừa bịp./.


CHÚ Ý VỚI NHỮNG CHIÊU TRÒ CŨ TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI


         Cứ đến dịp chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp, các thế lực thù địch lại rêu rao, xuyên tạc rằng: Việc lựa chọn, bầu vào các vị trí quan trọng trong Đảng, Nhà nước chỉ mang tính hình thức; chỉ người nhà các lãnh đạo mới được lựa chọn. Đại hội thực chất chỉ là việc củng cố, thâu tóm quyền lực của một số lãnh đạo... Đây là luận điệu xuyên tạc về công tác tổ chức cán bộ, nhằm làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta. Nắm bắt được nhu cầu thông tin của nhân dân về công tác chuẩn bị nhân sự, chúng đã tung lên mạng Internet đủ các loại thông tin bịa đặt, bôi nhọ, suy diễn, đồn đoán nhận định vô căn cứ về công tác cán bộ nhằm mục đích gây rối, làm nhiễu loạn thông tin, chia rẽ nội bộ và phá hoại sự thành công của Đại hội Đảng các cấp.
          Từ những vụ việc đã được xử lý, hoặc đang trong quá trình xử lý, chúng đưa ra bình luận ác ý, rồi suy diễn, bịa đặt rằng các đối tượng đã “bôi trơn” nên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật không dám làm mạnh tay. Lợi dụng kết quả cuộc đấu tranh chống tham nhũng do Đảng ta tiến hành, chúng xuyên tạc, bóp méo, vu khống, suy diễn cho rằng đó là cuộc “thanh toán phe phái”, “trả thù cá nhân” giữa người này với người kia, nhóm này với nhóm khác vì “lợi ích nhóm”. Từ đó, nhằm gieo rắc những hoài nghi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chúng xuyên tạc các mối quan hệ cho rằng người này ủng hộ người kia, người này cùng ê kíp người kia, rồi tự phân chia phe phái.
          Để hướng lái nội dung đại hội, nhất là công tác nhân sự, chúng dùng chiêu “nắn dòng” đưa ra những thông tin bình phẩm về trình độ, năng lực của người này, người kia rồi đặt lên bàn cân so sánh. Khi cần “hạ bệ” cá nhân nào, chúng tập trung khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm ở những ngành, những lĩnh vực mà cá nhân đó phụ trách; rồi quy kết trách nhiệm theo kiểu “bới lông tìm vết”, “có ít xít ra nhiều”; thậm chí là trắng trợn dựng chuyện, bịa đặt, đổi trắng thay đen, bóp méo hòng thay đổi bản chất của các vụ việc liên quan đến một số cán bộ, nhất là những đồng chí nằm trong quy hoạch nhân sự đại hội...
          Cần nhận thức rõ thực chất của những việc làm trên vẫn là những chiêu trò cũ rích mà họ đã sử dụng để chống phá Đảng, Nhà nước ta trong các kỳ đại hội trước đây. Mục đích cuối cùng của những chiêu trò ấy mới nghe tưởng chỉ nhằm vào từng cá nhân đơn lẻ, nhưng xét cho cùng, vẫn là nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, hạ thấp uy tín lãnh tụ, uy tín cán bộ, đảng viên để chống phá chế độ, chống phá dân tộc ta.
          Dù có tinh vi, thâm hiểm đến đâu chăng nữa, những chiêu trò ấy cũng không che giấu nổi tâm địa xấu xa của các thế lực thù địch, phản động, những phần tử cơ hội và càng không thể đánh lừa được dư luận. Bởi lẽ đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân ta luôn cảnh giác, bình tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt trong việc chọn lọc và tiếp nhận thông tin.

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2019

BÀN THÊM VỀ PHẠM ĐOAN TRANG VÀ GIẢI “TỰ DO BÁO CHÍ 2019”


Ngày 12/9/2019 tại Đức, tổ chức “Phóng viên không biên giới” (RSF) đã công bố và trao giải thưởng “Tự do báo chí 2019”, trong đó có Phạm Đoan Trang ở hạng mục “tầm ảnh hưởng”. Tổ chức “Phóng viên không biên giới” là một tổ chức phi chính phủ, với vỏ bọc “bảo vệ tự do báo chí trên thế giới”, hàng năm tổ chức này tự đưa ra xếp hạng về tự do báo chí của các nước; lựa chọn, vinh danh và trao giải “Tự do báo chí” cho những rận chủ có đóng góp cho “tự do báo chí” trên thế giới. Mặc dù là cái giải “giời ơi đất hỡi” là như vậy, ấy thế mà lại là niềm cổ vũ, tự hào của giới rận chủ khi được trao giải. Chẳng vậy mà, ngay sau khi thông tin được công bố, Phạm Đoan Trang tỏ ra đầy mãn nguyện, đồng thời nhận được sự chúc mừng của giới “dân chủ trong nước.
“Thành tích” mà giới rận chủ nhắc điến nhiều nhất về Phạm Đoan Trang, không gì khác chính là hoạt động xuất bản “sách phản động” của nữ dân chủ này. Có thể kể đến những đầu sách “nổi đình nổi đám” như “Chính trị bình dân”, “Phản kháng phi bạo lực”, và mới nhất là “Cẩm nang nuôi tù”, được coi như những cuốn “sách gối đầu giường” đối với “dân chủ. Nhìn vào nội dung của những cuốn sách này, người đọc có thể dễ dàng nhận thấy sự chủ đích của Phạm Đoan Trang từng bước dẫn dắt, hướng dẫn, kích động người đọc từ nhận thức tiến đến các hoạt động đối đầu với chính quyền, có thể bị xử lý bất cứ lúc nào.
Đáng nói ở chỗ, những nội dung trong các cuốn sách của Phạm Đoan Trang thực chất chẳng có gì mới mẻ, có chăng là sự cóp nhặt, “mông má” lại từ các nguồn trên mạng internet mà thôi. Đặc biệt, cuốn “Chính trị bình dân” của Phạm Đoan Trang còn từng bị tố ăn cắp bản quyền với bài viết “Phụ nữ, phượt hay không phượt”, từ tác giả “Xinh Trương An” - đồng nghiệp của Phạm Đoan Trang một thời tại báo Vietnamnet. Phạm Đoan Trang đã tự ý sử dụng bài viết của người khác để in sách, khi bị tác giả bài viết nhắn tin “vạch mặt”, Phạm Đoan Trang đã lặn mất hút, không một lời phản hồi.
Đồng thời theo Phạm Đoan Trang, mục đích của việc xuất bản những cuốn sách này, là để đóng góp vào quá trình “đấu tranh dân chủ”, tuy nhiên trên thực tế lại không như những gì nữ rận chủ này nói. Những cuốn sách của Phạm Đoan Trang đều được nữ rận chủ này dùng đủ chiêu trò để rao bán, mời mọc, quyên góp tiền để trao tặng khi chẳng có mấy kẻ muaMặc dù, cả băng đảng VOICE của Trang từ nhóm nhóm Luật khoa tạp chí, Nhà xuất bản Tự do, ... cho đến đồng đảng đều thực hiện những chiêu trò PR rầm rộ vẫn chẳng có ma nào mua khiến Trang không ít lần than thân trách phận, lên án “dân trí” và chế nhạo đồng bọn không chịu học hỏi nầng tầm, rồi than khóc với đám “cứu tế” ở hài ngoại để quyên tiền cho Trang “khai trí” cho đám zân chủ trong nước bằng các màn tặng sách, thu âm, rải file…còn Trang cam kết sẽ tiếp tục “hun đúc động lực” để ra sách để “cống hiến” cho “phong trào dân chủ”!
Phải chăng, giải “Tự do báo chí” chỉ là một cái danh hão, có chăng chỉ là chiêu trò để tự lăng xê lẫn nhau giữa bên trao và bên nhận giải mà thôi.



XUNG QUANH VIỆC BẮT NGUYỄN ĐỨC QUỐC VƯỢNG


        Ngày 27-9, Công an huyện Đơn Dương xác nhận, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Lâm Đồng vừa ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thực hiện lệnh bắt tạm giam Nguyễn Quốc Đức Vượng (SN 1991, ngụ thôn Hải Dương, xã Lạc Lâm, huyện Đơn Dương) để điều tra về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, theo Điều 117 Bộ Luật hình sự.
Kết quả điều tra ban đầu xác định, hơn hai năm qua, Nguyễn Quốc Đức Vượng đã sử dụng mạng xã hội để làm, tán phát tài liệu, tuyên truyền xuyên tạc nhằm bôi nhọ, nói xấu chế độ, xúc phạm Chủ tịch Hồ Chí Minh, chống phá Nhà nước CHXHCN Việt Nam. 
Nhân đó, Võ Hồng Ly (thành viên Việt Tân) đã đưa tin về vụ việc ngay từ trưa 23/09, trong khi Minh Hải (VNTB) Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (DLB) lần lượt đưa tin vào ngày 27 và 28/09. Vì Võ Hồng Ly giữ liên lạc với gia đình Vượng, đồng thời kêu gọi kêu gọi giới chống đối động viên, hỗ trợ gia đình qua số điện thoại của anh trai Vượng là Nguyễn Quốc Doanh, nhiều khả năng Vượng có liên hệ với Ly.
Ngoài việc đưa tin, 3 người vừa nêu cũng tuyên truyền về vụ bắt Vượng theo hai hướng.
Thứ nhất, họ khen Vượng là người “kiên cường”, vì “bình thản đón nhận” khi bị bắt.
Thứ hai, họ nhấn mạnh việc Vượng từng đi biểu tình phản đối Dự luật Đặc khu Kinh tế vào năm 2018, để tuyên truyền rằng Chính phủ Việt Nam đang “bắt bớ”, “trả thù” những người từng đi biểu tình “chống Trung Quốc”. Thông điệp tuyên truyền này sai sự thật, bởi một mặt, Vượng bị truy tố về hành vi tuyên truyền thay vì hành vi biểu tình. Mặt khác, ngay trong năm 2018, Vượng đã bị phạt hành chính về hành vi “gây rối mất trật tự” trong cuộc biểu tình, khiến việc này không thể là lý do để khởi tố trong năm 2019.
Thứ ba, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh viết rằng công an đã vi phạm quy trình tố tụng hình sự, khi không cung cấp cho gia đình Vượng “bất kỳ một giấy tờ nào có liên quan đến việc khám xét và tịch thu đồ vật”. Cáo buộc này không hợp lý, bởi một mặt, cuộc phỏng vấn của Minh Hải (VNTB) cho thấy thực ra bố của Vượng, tức đại diện của gia đình, đã ký các biên bản mà không đọc nội dung. Mặt khác, pháp luật không quy định rằng gia đình Vượng phải được giữ các biên bản đó. Cụ thể, Khoản 2 Điều 198 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 chỉ quy định rằng:
“Biên bản tạm giữ được lập thành bốn bản, trong đó một bản giao cho người chủ tài liệu, đồ vật hoặc người quản lý tài liệu, đồ vật, một bản đưa vào hồ sơ vụ án, một bản giao cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản giao cho cơ quan quản lý tài liệu, đồ vật bị tạm giữ”.
Nguyễn Quốc Đức Vượng bị truy tố vì tuyên truyền chống chế độ, chứ không phải vì đi biểu tình. Bằng chứng về hoạt động tuyên truyền của Vượng hiện vẫn còn trên Facebook. Qua việc Võ Hồng Ly và fanpage Việt Tân lên tiếng chỉ vài giờ sau khi Vượng bị bắt, đồng thời giữ liên lạc với gia đình của Vượng, cần xem xét khả năng Vượng có quan hệ với đảng Việt Tân. Trong khi đó, hiện chưa có bằng chứng cho thấy cơ quan công an làm sai thủ tục tố tụng trong vụ việc.



CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ CÂU “TÔN GIÁO LÀ THUỐC PHIỆN CỦA NHÂN DÂN”


         Gần đây, một số chức sắc tôn giáo ở Việt Nam, đặc biệt là Công giáo (Kito) đã lợi dụng thần quyền để công kích, bôi nhọ chế độ và lãnh tụ, xuyên tạc lịch sử dân tộc, xúi giục giáo dân làm loạn, gây ảnh hưởng rất xấu tới ANTT và ảnh hưởng chính tới bộ mặt của tôn giáo. Với chính sách tự do tôn giáo cởi mở, chính quyền Việt Nam đã hết sức nhẫn nhịn, dù dư luận nhân dân rất phẫn nộ đòi hỏi phải thực thi các biện pháp cứng rắn theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, khi một số vị chức sắc trong số đó bị chính Giáo hội và cha bề trên xử lý (điển hình là việc linh mục Nguyễn Duy Tân bị bề trên trục xuất), những kẻ cực đoan trong tôn giáo lại lớn tiếng đổ lỗi, vu cáo cho chính quyền Việt Nam là “can thiệp, mất dân chủ, đàn áp tôn giáo” một cách vô căn cứ.
Trong bối cảnh đó, những thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực tư tưởng lập tức hướng mũi nhọn công kích, xuyên tạc chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách của Đảng - Nhà nước Việt Nam về công tác tôn giáo. Mặt khác, một số người do phẫn nộ lại chưa hiểu rõ mà dùng câu “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” khi nêu ý kiến về tôn giáo, điều này rất dễ bị kẻ thù lợi dụng để kích động là chúng ta phỉ báng, chống phá tôn giáo.
Vậy thực chất nhận xét này của Marx có ý nghĩa như thế nào?
Câu nói trên đã bị cắt khỏi bài viết và hoàn cảnh lịch sử của nó, thực tế câu “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” chỉ là một ý được trình bày ở trong lời nói đầu của tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hegels” (1844). Vì vậy có thể thấy nội dung tác phẩm này của Marx là phê phán triết học pháp quyền Hegels chứ không phải là phê phán tôn giáo. Đoạn văn như sau:
“Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Xóa bỏ tôn giáo, với tính cách là xóa bỏ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là yêu cầu thực hiện hạnh phúc thực sự của nhân dân. Yêu cầu từ bỏ những ảo tưởng về tình cảnh của mình cũng là yêu cầu từ bỏ cái tình cảnh đang cần có ảo tưởng. Do đó, việc phê phán tôn giáo là hình thức manh nha của sự phê phán cuộc sống khổ ải mà tôn giáo là vòng hào quang thần thánh của nó”.
Ở câu này, Marx đã vận dụng phép biện chứng để phản ánh hiện thực xã hội cũng như phản ánh sự thoái hóa của Tôn giáo. Trong một xã hội TBCN đầy rẫy những áp bức bóc lột bất công, nhân dân lao động không thể tìm thấy một cuộc sống dù chỉ tạm đủ. Đối với họ, việc lo cho đủ ba bữa ăn trong một ngày là quan trọng hơn bất cứ việc nào khác. Cũng như vậy, người dân lao động hàng ngày phải lao động từ 12-14 tiếng trong công xưởng, thậm chí là 18-20 tiếng thì họ không thể có một đời sống tinh thần thực sự.
Với sự bóc lột lao động đến mức cùng cực và kiệt quệ như vậy thì đời sống tinh thần của người dân cũng ngày càng nghèo nàn hơn. Karl Marx đã từng mô tả, cuộc sống của giai cấp vô sản dường như chỉ quay xung quanh việc lao động, ăn, ngủ và duy trì nòi giống. Ngoài 4 việc đó ra thì giai cấp vô sản dường như chẳng còn một tý chút thời gian dư dả nào cả, vậy nên chính vì thế đời sống tôn giáo của họ cũng nghèo nàn như vậy. Con người ta chỉ chăm lo cho bữa ăn nhiều hơn là tuân theo những chuẩn mực đạo đức của tôn giáo, bởi lẽ trong nhận thức của họ thì bữa ăn là cái cần thiết tối thiểu còn không đủ thì làm sao có thể học theo những chuẩn mực đạo đức hay giáo lý tôn giáo.
Vì vậy sự nghèo nàn của tôn giáo chỉ quay lại một niềm tin cảm tính duy nhất, đó là tin vào Đấng toàn năng năng những mong Đấng toàn năng sẽ phù hộ, thậm chí người dân còn chẳng thể nhận thức được Đấng toàn năng là ai, và dạy cho những gì, bởi nhân dân lao động chẳng thể quan tâm đến nó là gì, và nó có gì. Sự nghèo nàn ấy của tôn giáo cũng chính là sự nghèo nàn thực tế của xã hội, nhưng lại là sự phản kháng chống lại chính cái nghèo nàn ấy.
Nhân dân lao động đã mất hết niềm tin, họ cảm thấy xã hội chỉ toàn những áp bức và bất công, nhưng họ không tìm được cách giải quyết cho sự khổ đau về mặt vật chất, vậy nên họ tìm đến tôn giáo như một liều thuốc giảm đau, giúp tạm thời quên đi những nỗi đau hàng ngày đang phải đối diện. Vậy nên Marx khẳng định, tôn giáo chính là “tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức”, là cách để họ tạm thời lấy lại được sự sống sau những giờ lao động mệt mỏi và căng thẳng. Cũng đồng thời đó là “trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của trật tự không có tinh thần” - ở đây, chính là Marx đề cao tôn giáo chứ không hề phỉ báng tôn giáo.
Tại sao lại như vậy, bởi lẽ nếu không có tôn giáo thì thật sự nhân dân lao động sẽ không còn là con người, họ sẽ biến thành những con rô bốt không có trái tim. Trong xã hội đó, một xã hội mà đời sống tinh thần nghèo nàn nhất thì tôn giáo lại món ăn tinh thần duy nhất, bởi vậy mới là “tinh thần của trật tự không có tinh thần”. Có thể nói ở tôn giáo, con người lao động mới tìm thấy được phần người ít ỏi còn sót lại ở trong cuộc sống của họ, để họ hiểu rằng họ không phải là những cỗ máy vô cảm, mà họ là con người, họ có tình cảm, có lý trí và có cả sự nhận thức. Những điều mà một con rô bốt không thể tìm thấy trên băng chuyền sản xuất.
Đến đây, Karl Marx mới đưa ra kết luận nổi tiếng: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Có thể thấy mâu thuẫn của vấn đề đã được đưa lên đến đỉnh điểm, dường như nhiều người chỉ nghe câu nói này sẽ nghĩ ngay đến Marx đang ám chỉ tôn giáo là một thứ tiêu cực, gây tổn hại đến nhân dân và cần phải xóa bỏ. Hoặc theo một hình tượng khác thì tôn giáo là tiêu cực của xã hội cũng giống như thuốc phiện vậy. Nhưng thực chất thì không phải như thế.
Ai cũng biết rằng, tình cảnh giai cấp lao động thời của Karl Marx là vô cùng khốn khổ. Vậy nên khi ví tôn giáo là thứ gây nghiện thì thực chất Marx muốn ám chỉ rằng vào thời đó là lúc mà con người còn cảm thấy họ là chính con người và họ có thể tìm được bản thân mình ở những thú vui tình thần còn lại duy nhất này mà không phải là máy móc hay con vật. Mặt khác, trong điều kiện nghèo nàn vật chất thì thời của Marx người công nhân và nhân dân lao động còn không có được những điều kiện chăm sóc y tế tối thiểu. Chính vì vậy nên họ tìm đến “laudanum” là một loại cồn thuốc phiện. Cồn thuốc phiện ở thế kỷ 19 được dùng như một thứ “thuốc chữa bách bệnh”, từ bệnh tiêu chảy, ho, cảm cho đến bệnh đau xương, đau khớp. Thực chất cồn thuốc phiện không hề chữa bệnh mà chỉ giúp cho xoa dịu đi những nỗi đau đớn vì bệnh tật của con người.
Từ quan sát thực tế, Marx khẳng định loại cồn thuốc phiện đó là có tác dụng, nhưng nó không phải là thuốc, vì vậy nó không giải quyết được bệnh trạng của con người và con người vẫn phải chịu bệnh trạng như vậy, cuối cùng vẫn chết, có chăng chỉ là sự đau đớn giảm đi mà thôi. Cũng như vậy, tôn giáo là liều thuốc giảm đau hữu hiệu đối với những đau khổ của giai cấp vô sản thời bấy giờ, là món ăn tinh thần an ủi nhân dân lao động. Nhưng nó không thể giải quyết được sự đau khổ mà chỉ giúp người ta giảm bớt nỗi đau khổ với một niềm tin cảm tính còn lại duy nhất vào các đấng toàn năng sẽ cứu vớt linh hồn họ (tôn giáo lúc đó cũng nghèo nàn như chính tác dụng chữa bệnh của cồn thuốc phiện vậy). 
Vậy nên và như vậy con người vẫn phải đối mặt với những đau khổ đó và muốn giải quyết nỗi đau đó thì không gì hơn là phải tìm lại chính mình, tìm lại được bản thân con người, đưa một hiện thực ảo tưởng thành một hiện thực thực sự dù nó không có thực thể. Cũng giống như một người bệnh không thể dùng mãi cồn thuốc phiện mà phải đứng lên để tự đi khám để biết được bệnh của mình và tìm ra loại thuốc có thể chữa bệnh cho chính mình. Không ai có thể làm thay họ việc đó, kể cả bác sĩ, bởi nếu bệnh nhân không chịu khám thì bác sĩ mãi mãi chẳng thể cho họ biết họ mắc bệnh gì và cần dùng thuốc gì.
Như vậy, rõ ràng là Marx không hề phê phán tôn giáo là thứ hại nhân dân, trái lại ông đang mô tả thực sự đó là liều thuốc tinh thần còn lại duy nhất để giúp người dân tìm lại được chính họ còn là con người trong một xã hội vốn không có tình người, là liều thuốc giảm đau duy nhất đối với những đau khổ mà nhân dân lao động đang phải gánh chịu trong xã hội tư bản.
Sự phê phán ở đây của Marx là mong “loài người vứt bỏ những xiềng xích là các bông hoa giả trang điểm cho chúng, để loài người không phải tiếp tục mang những xiềng xích ấy, mà tìm đến để hái lấy bông hoa thật, tự thoát khỏi ảo tưởng, để con người suy nghĩ, hành động, xây dựng tính hiện thực của mình, để con người xoay quanh bản thân mình và cái mặt trời thật sự của mình. Còn tôn giáo chỉ là mặt trời ảo tưởng khi mà con người chưa tìm ra được chính bản thân mình”.
Karl Marx đã chỉ ra việc phê phán tôn giáo không phải là xóa bỏ tôn giáo. Bởi cái xiềng xích lớn nhất trói buộc con người chính là chủ nghĩa tư bản và hiện thức bóc lột nặng nề, cái bông hoa giả chính là những nhận thức tôn giáo ngay tại nước Đức thời bấy giờ. Nhận thức tôn giáo mang tính lầm lạc và cứu rỗi con người về mặt tinh thần nhưng không thể nào cứu rỗi chính bản thân con người đó. Đó chính là hiện thực của các nước Châu Âu thế kỷ 19 khi mà tôn giáo chỉ còn là cái vỏ bọc để bảo vệ cho chế độ bóc lột của CNTB, tôn giáo mất đi cái bản chất giáo dục nhân cách của con người và chỉ còn là những hiện tượng tinh thần mang tính ảo tưởng. Nhiệm vụ của việc phê phán tôn giáo là bản thân con người phải vứt bỏ những lầm lạc ảo tưởng mà các tôn giáo sử dụng để con người quên đi những nỗi đau khổ thực tại mà họ đang phải đối mặt. 
Đồng thời Marx cũng nhấn mạnh rằng con người phải bỏ đi những bông hoa giả và lấy những bông hoa thực, những bông hoa đẹp đẽ là hình ảnh ẩn dụ của tôn giáo, vậy việc phê phán tôn giáo chính là bỏ đi tôn giáo ảo tưởng để đi đến tôn giáo thực tại. Các tôn giáo thường nói về thiên đường, đó là chỉ cần con người nghe lời chúa thì họ sẽ được lên thiên đường và đó là điều mà nhà thờ đã và đang dạy họ. Nhưng để làm cụ thể như thế nào mới được lên thiên đường thì nhà thờ lại không chỉ ra cho họ. Chính vì vậy thiên đường mãi mãi là ảo tưởng và bản thân người dân lao động vẫn hàng ngày sống cảnh nghèo nàn, thất học, đói kém. Họ không dám và không thể tự xây dựng ước mơ cho chính mình. Và nhiệm vụ lấy được bông hoa thật là phải đưa tôn giáo trở về tôn chỉ thực sự với ý nghĩa là giáo dục nhân cách đạo đức cho con người.
Vậy làm cách nào để có thể có được sự cứu rỗi thật sự? Điều mà Marx chỉ ra, liều thuốc thực sự cho xã hội chính là sự tự ý thức của con người. Con người sẽ dần phải xóa bỏ những niềm tin cảm tính của mình để xây dựng một con người hiện thực, con người với niềm tin lý tính. Đây chính là điểm quan trọng nhất mà Marx muốn nói đến, nhưng nó đã bị rất nhiều người vô tình hoặc cố ý hiểu sai.

Sự khác biệt giữa niềm tin cảm tính và niềm tin lý tính đó là cảm xúc trong niềm tin, một niềm tin lý tính là niềm tin vào lý luận và thực tiễn mà không bị tác động của cảm xúc yêu hay ghét, đó là niềm tìn vào lẽ phải theo đúng hiện thực của nó, theo những quy luật vận động của tự nhiên và xã hội chứ không phải một niềm tin cảm tính tức một niềm tin mù quáng không có cơ sở.
Tuy nhiên, niềm tin cảm tính thực tế lại là căn bệnh cố hữu của đa phần mọi người trong xã hội. Họ không cần phải có thực tiễn và lý luận, họ tin theo chỉ vì họ có cảm tình với nó. Và điểm khác biệt mấu chốt là niềm tin cảm tính thì thay đổi theo thời gian vì nó phụ thuộc vào trạng thái cảm xúc của con người rất thất thường. Còn niềm tin lý tính không có sự thay đổi bởi nó gắn chặt vào những quy luật vận động của tự nhiên và xã hội. Niềm tin lý tính gọi một cách đơn giản là niềm tin thuận theo quy luật tự nhiên và để nhận thức được các quy luật tự nhiên thì lại đỏi hỏi con người phải có một tư duy lí tính, để loại bỏ tất cả những yếu tố gây nhiễu trong tư duy của họ, tức con người phải là con người lý tính.
Điểm biện chứng hay nhất của Marx ở đây nằm ở chỗ thay thế niềm tin cảm tính bằng niềm tin lý tính. Nói một cách đơn giản: hãy làm theo điều Chúa dạy để sống và nhận thức như Chúa, thay vì tin vào những điều ảo tưởng mà nhà thờ thời bấy giờ vẽ ra như một công cụ chính trị để hạn chế nhận thức của nhân dân lao động, biến họ trở nên mù quáng và không có lý tính. Đây là điểm mà nhiều chức sắc tôn giáo thiếu đạo đức lợi dụng nhà thờ để dẫn dụ, đã và đang tẩy não con người. Tư tưởng của họ rao giảng không còn là tư tưởng của Chúa nữa, mà là tư tưởng của chính giới tăng lữ muốn ăn trên ngồi trốc thống trị xã hội.
Những sự tha hóa trong nhà thờ đã và đang phá hủy tôn giáo thực sự mà biến nó trở thành những hình ảnh tôn giáo mà thôi. Giáo dân luôn tin tưởng vào Chúa nhưng họ không biết phải làm thế nào để có được hạnh phúc mà Chúa đã dậy, còn nhà thờ và giới tăng lữ luôn cố gắng nhồi nhét vào đầu của giáo dân những tư tưởng họ bảo là của Chúa, nhưng thực chất họ lại không hề tin vào Chúa. 
Thấm nhuần chủ nghĩa Marx, những người lãnh đạo cộng sản luôn có quan điểm và thái độ đúng mực đối với các tôn giáo, đó là:
+ Luôn tôn trọng niềm tin tôn giáo của người dân.
Dù đây đó vẫn có những quan điểm tả khuynh và cực đoan, do nhận thức Marx chưa sâu sắc hoặc chính do xuất phát từ sự cố tình chống đối từ những thế lực thù địch núp bóng giáo hội, song quan điểm nhất quán của Đảng cộng sản Việt Nam vẫn là:
- Thứ nhất: Tôn trọng niềm tin tôn giáo của nhân dân như một sự thật đang tồn tại và là quy luật chung của xã hội. Cũng như Marx từng khẳng định ý thức xã hội không thể vượt qua tồn tại xã hội. Những người theo tôn giáo là vì niềm tin của họ thực sự được xây dựng từ chính điều kiện hoàn cảnh sống của họ, ngay từ lúc sinh ra cho tới lúc mất đi, gần như hoàn cảnh sống của họ đã gắn liền với tôn giáo, gắn liền với cha mẹ và họ hàng của họ. Đây là điều không thể tránh khỏi và gần như rất khó để thay đổi.
- Thứ hai: Để xóa bỏ niềm tin cảm tính hoang đường của những người theo tôn giáo thì phải xây dựng niềm tin lý tính cho họ. Điều này đỏi hỏi một quá trình giáo dục lâu dài và gắn liền với thực tế hoạt động tôn giáo. Bản thân Marx không bao giờ có luận điểm rằng những người cộng sản thì không theo tôn giáo, vậy nên chính những người cộng sản, những người đang có một niềm tin lý tính thật sự phải đi sâu tìm hiểu đến từng tôn giáo gắn liền với đời sống của nhân dân. Có như vậy mới có thể thực hiện việc giáo dục người dân mà không hề xóa bỏ niềm tin của họ, chỉ là chuyển đổi niềm tin từ cảm tính sang lý tính mà thôi.
+ Cần có phương pháp điều chỉnh cân bằng giữa tôn giáo và khoa học. 
Có một thực tế vẫn đang diễn ra, đó là sự đối lập sâu sắc giữa tôn giáo và khoa học. Thế kỉ 21 là thế kỷ KHKT phát triển mạnh mẽ, phần nào cũng khiến cho trào lưu nghi ngờ và bài xích tôn giáo gia tăng. Tuy vậy, dù KHKT phát triển đến đâu thì vẫn có những điều không thể giải thích, chính vì vậy con người ta vẫn sẽ tìm đến tôn giáo để tìm cách giải thích về các sự vật hiện tượng mà KHKT chưa giải thích được.

Vậy nên, không thể dùng khoa học để phủ định sạch trơn tôn giáo mà phải biết rằng tôn giáo và khoa học là hai mặt đối lập nhau của một thể thống nhất, luôn đấu tranh và thống nhất với nhau, nếu tuyệt đối hoá khoa học thì vô hình chung lại sinh ra một thứ tôn giáo mới: tôn giáo khoa học.
Tóm lại, câu nói “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” của Marx hoàn toàn không mang hàm ý bài trừ tôn giáo, cái mà ông phê phán ở đây là những ảo tưởng sinh ra từ hình thức tôn giáo. Những ảo tưởng này theo Marx có thể xoa dịu những nối thống khổ của nhân dân lao động nhưng không thể giải quyết triệt để được những nỗi thống khổ. Muốn giải quyết những khổ đau thì phải chính do người dân tự thực hiện, thoát ra khỏi hạnh phúc ảo tưởng để đem lại hạnh phúc thực sự cho chính mình thông qua việc phê phán những sự hoang đường do những kẻ đội lốt tôn giáo tạo ra nhằm khống chế, khai thác người dân.


Các thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền, chống phá, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh


     Nhằm thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với nước ta, trong những năm qua, các thế lực thù địch triệt để tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch, những thông tin xấu, độc hại, bịa đặt, vu cáo hòng chống phá Việt Nam. Thông qua đó, hòng xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, từng bước thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Chúng coi đó là một mũi tấn công quan trọng nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm cách đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin, coi Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải là người cộng sản. Chúng cho rằng, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam là sai lầm, là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của đất nước. Chúng triệt để lợi dụng, khoét sâu những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, lợi dụng các vụ việc phức tạp xảy ra ở trong nước để xuyên tạc rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã lỗi thời, cho rằng Việt Nam nên thay đổi Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản để “phù hợp với xu thế phát triển”. Chúng ra sức đẩy mạnh tuyên truyền, ca ngợi chủ nghĩa tư bản, cổ xúy cho chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, cho rằng chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, không còn là xã hội áp bức, bóc lột. Thông qua đó, nhằm làm một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân dao động, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về thành tựu đổi mới của đất nước, về mục tiêu, con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; kích động, chia rẽ nội bộ để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, lôi kéo, kích động nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất ổn định chính trị, xã hội ở nước ta.
Để tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch với nước ta, các thế lực thù địch đã xuất bản, tán phát các loại ấn phẩm, tài liệu như: Các báo cáo, nghị quyết, dự luật của nghị viện, quốc hội các nước (như Mỹ, Australia, Anh…); các văn bản pháp lý của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ (NGO) như: Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI), Tổ chức theo dõi nhân quyền quốc tế (HRW)…; các ấn phẩm xuất bản, như: Sách báo, tạp chí, tập san, tờ rơi… của các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng cơ hội chính trị trong và ngoài nước; các trang web, các chương trình phát thanh, phát hình bằng tiếng Việt, như: BBC, VOA, RFA, RFI…
Chúng triệt để lợi dụng thời điểm trong nước diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng như Đại hội Đảng toàn quốc, bầu cử Quốc hội… hoặc xảy ra các vụ việc phức tạp để đẩy mạnh các chiến dịch phá hoại tư tưởng nhằm tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc, thù địch đối với nước ta.
Trong những năm qua, chúng ta đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp đấu tranh, ngăn chặn kịp thời các hoạt động tuyên truyền những quan điểm sai trái, thù địch; xử lý nghiêm trước pháp luật các đối tượng tuyên truyền, xuyên tạc chống phá nước ta. Các cơ quan chức năng đã tăng cường quản lý báo chí, internet, hoạt động xuất bản, yêu cầu các tập đoàn truyền thông, như: Google, Youtube… gỡ bỏ các clip, tài khoản có nội dung xấu, độc hại. Thông qua các kênh hợp tác song phương, đa phương… các cơ quan chức năng đã chuyển tải chính sách, thành tựu phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quyền con người tới cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài, góp phần giải tỏa các thông tin sai lệch và đấu tranh, phản bác các luận điệu phản động, thù địch đối với nước ta.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác đấu tranh trên lĩnh vực này trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, bất cập, như:
Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên về âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cũng như tác hại của quan điểm sai trái, thù địch đối với xã hội còn hạn chế;
Sự phối hợp giữa các cơ quan ban, ngành trong tuyên truyền và đấu tranh, phản bác còn mang tính hình thức, thụ động, chưa phát huy sức mạnh tổng hợp trong công tác này.
Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu, phương thức và tác hại của các quan điểm sai trái, thù địch còn ở mức khiêm tốn.
Nhằm phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn hiệu quả hoạt động này, cần tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó chú trọng một số giải pháp trọng tâm như sau:
Một là, công tác phòng ngừa, đấu tranh chống hoạt động tuyên truyền các luận điệu sai trái, thù địch luôn phải được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác này một cách thực chất, thường xuyên, liên tục với quyết tâm chính trị lớn, có sức thuyết phục cao, sức lan tỏa sâu rộng.
Cuộc đấu tranh này phải được triển khai sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân với nội dung phong phú, phù hợp với từng đối tượng.
Hai là, tiếp tục tăng cường công tác nắm tình hình, nghiên cứu dự báo, phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, đặc biệt là các phương thức hoạt động mới của các thế lực thù địch để tuyên truyền các luận điệu sai trái, xuyên tạc, thù địch; dự báo thời điểm các thế lực thù địch đẩy mạnh các chiến dịch phá hoại tư tưởng để kịp thời triển khai biện pháp đấu tranh, ngăn chặn.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, khẳng định vị thế, vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạch định đường lối xây dựng và phát triển đất nước; làm cho hệ tư tưởng này có sức sống mãnh liệt và giữ vai trò chủ đạo trong đời sống của xã hội ta.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân dân về bản chất cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng minh chứng cụ thể từ những thắng lợi trong lịch sử dân tộc và trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước hiện nay; về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng; về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm tuyên truyền, xuyên tạc hệ tư tưởng của xã hội ta... để từ đó thúc đẩy mọi người tự giác tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh.
Năm là, tiếp tục thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; không ngừng nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.


Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch


     Thực hiện Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 22-10-2018 về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động trong Đảng bộ Bộ Tư pháp cần nhận thức sâu sắc, giữ vững bản lĩnh chính trị, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trước hết, các lực lượng thù địch bao gồm cả những người nghiên cứu lý luận, thực tiễn ở các nước trong cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Ngay ở các nước Tư bản phát triển thì những nhà hoạt động chính trị thuộc giới cầm quyền có tư tưởng tư bản theo kiểu truyền thống và các nhà hoạt động chính trị thuộc giới cầm quyền có tư tưởng xã hội chủ nghĩa cũng đấu tranh lẫn nhau. Cuộc đấu tranh này không chỉ diễn ra ở dất nước chúng ta mà còn trên phạm vi thế giới.
Bên cạnh đó là lực lượng cực đoan người Việt ở nước ngoài luôn lôi kéo, kết hợp với số chống đối, bất mãn ở trong nước lập ra các tổ chức như Việt Tân, Việt Nam phục quốc, Triều đại Việt.
Ngoài ra là một số cán bộ, đảng viên (có những đảng viên đã từng giữ chức vụ trung, cao cấp trong bộ máy, hệ thống chính trị của nước ta) suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Lực lượng này len lỏi, phức tạp, không khó để nhận ra nhưng lại rất khó để đấu tranh. Đây là những người phản bội lại quá khứ, phản bội lại lý tưởng, và nguyên nhân của sự phản bội đó đôi khi lại bắt nguồn từ sự bất mãn, không đồng ý một số vấn đề cụ thể trong chính sách, ứng xử của những cơ quan, đơn vị nơi người đó công tác.
Một số nội dung và phương thức chống phá chủ yếu của các thế lực thù địch.
Về nội dung chống phá:
Một là, phủ định chủ nghĩa Mác – Lênin.
Hai là, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ba là, chống phá quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực.
Bốn là, phủ nhận những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử chúng ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng.
 Về phương thức chống phá:
Chúng sử dụng truyền thông đại chúng, đặc biệt là xuất bản báo chí ở nước ngoài, sản xuất băng, đĩa hình chuyển về trong nước; tài trợ cho một số cơ quan báo chí nước ngoài chuyên chống phá Việt Nam (như VOA tiếng việt, RFA, RFI, BBC việt ngữ) để nói xấu Việt Nam.
Chúng đặc biệt sử dụng internet và truyền thông xã hội để chống phá; lợi dụng các sai sót trong quản lý để kích động biểu tình trái phép và xuyên tạc.
Chúng tổ chức các hội thảo để xem xét lại các vấn đề liên quan đến lịch sử, tuy âm thầm và lâu dài nhưng tác hại thực sự rất ghê gớm.
Chúng tấn công vào nội bộ, phủ nhận các thành tựu đã đạt được của cơ quan, đơn vị, kích động để tấn công vào quá khứ.
Một số nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong Đảng bộ Bộ Tư pháp.
Thứ nhất, tập trung đổi mới để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng.
Thứ hai, đổi mới nội dung, phương thức nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền vể Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ ba, phát huy vai trò của báo chí truyền thông
Thứ tư, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên chấp hành cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết, quy định của Đảng và kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với sai phạm.
Thứ năm, siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Ðảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư nặc danh, mạo danh có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và sử dụng internet và mạng xã hội, trong đó chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Mỗi đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm của mình trong bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng. Tăng cường rèn luyện phảm chất chính trị, tư tưởng, đấu tranh với các hiện tượng vi phạm trong các tổ chức đoàn thể và quần chúng.

Bài học cho những kẻ tự nhận là nhà đấu tranh cho dân chủ




Vừa qua, cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Lâm Đồng đã thi hành lệnh bắt giữ và khởi tố điều tra Facebook Vượng Nguyễn (tên thật là Nguyễn Quốc Đức Vượng). Tuy nhiên, trước khi bị bắt, anh ta còn khẳng khái tuyên bố: “Muốn bắt tôi thì cứ bắt, nhưng phải chứng minh được cho mọi người thấy tôi có tội gì với dân tộc này”(!). Lợi dụng sự việc trên các anh hùng bàn phím lại được dịp “đăng đàn” trên các trang mạng xã hội phản động để lu loa, kêu gọi đấu tranh cho dân chủ.
Để trả lời cho câu hỏi của Vượng Nguyễn và các nhà tự xưng là đấu tranh cho dân chủ, hãy cùng Tre Việt tìm hiểu cho rõ ngọn ngành
Trước hết, cần khẳng định ngay rằng: mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng, được Hiến pháp, pháp luật bảo hộ quyền bất khả xâm phạm thân thể, chỗ ở nếu tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.
Còn với Facebook Vượng Nguyễn thời gian qua anh ta đã làm những gì?
Hơn 02 năm qua, anh ta đã làm, tàng trữ, phát tán nhiều tài liệu tuyên truyền xuyên tạc nhằm bội nhọ, nói xấu chế độ, xúc phạm Chủ tịch Hồ Chí Minh, chống phá Nhà nước Việt Nam. Những hành động, việc làm này đã vi phạm Điều 117, Bộ luật Hình sự năm 2015.
Ngày 10-6-2018, anh ta cùng một số đối tượng phản động đã tham gia biểu tình gây rối trật tự công cộng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hành động này đã vi phạm Điều 318, Bộ luật Hình sự 2015 và đã bị công an phường Tân Tạo, Bình Tân xử phạt vi phạm hành chính
Sau đó, mặc dù được chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương nhắc nhở, tuyên truyền vận động, thuyết phục nhưng không có hiệu quả, mà càng tỏ ra cực đoan, có hành động chống phá quyết liệt hơn. Như vậy, việc cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Lâm Đồng đã bắt giữ, khởi tố điều tra công dân Nguyễn Quốc Đức Vượng là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Vậy là đã rõ các tội của Vượng Nguyễn đối với dân tộc này. Giờ thì Vượng Nguyễn hãy yên tâm ngồi mà suy ngẫm về những việc làm sai trái của mình. Và rồi đây sẽ phải chịu những hình phạt đích đáng của pháp luật; sẽ mong mỏi, bóc lịch từng ngày để tìm lại cho mình sự lương thiện. Đây cũng là bài học cảnh tỉnh, làm sáng mắt cho những ai đang tự nhận là nhà đấu tranh cho dân chủ một cách phi pháp./.




NGUYỄN ĐÌNH CỐNG VÀ CHẾ ĐỘI “TÂM QUYỀN PHÂN LẬP”


        Xây dựng một “xã hội dân chủ đa đảng” tại Việt Nam là ước mơ cháy bỏng, là hoài bão, là nỗi khát khao chính trị của lực lượng phản động, cơ hội về chính trị hiện đang sống ở nước ngoài cũng như ở trong nước. Để thực hiện ước mơ đó, mới đây, ngày 29/9/2019 trên trang bog Bauxite Việt Nam, đối tượng Nguyễn Đình Cống đã phát tán bàiNỗi khổ chẳng đáng thương. Nội dung xuyên tạc, nói xấu Quy định 205 – QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền; xuyên tạc tình hình nội bộ Đảng; cổ súy cho cái gọi là chế độ “Tam quyền phân lập”.
Đọc qua tài liệu này cho thấy, các lực lượng phản động, cơ hội chính trị đang cố tình xuyên tạc, bôi đen tình hình mọi mặt của đất nước, quy chụp cho các đồng chí lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, gây nên những bất ổn xã hội, gây chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước, tạo cớ để các thế lực phản động đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ Tam quyền phân lập”, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đưa nước ta đi theo con đường chủ nghĩa tư bản.
          Khi nghiên cứu tài liệu, mọi người sẽ thấy rằng: Mục đích của những kẻ phản động như Nguyễn Đình Cống là bôi nhọ, nói xấu Đảng, Nhà nước ta; lợi dụng tình hình bất ổn, đề xuất những giải pháp để xây dựng Tam quyền phân lập? Họ có đủ tư cách đại diện cho nhân dân để bàn về giải pháp xây dựng “Tam quyền phân lập” ở Việt Nam, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải thực hiện những yêu sách vô lý của họ hay không? Cái mô hình Tam quyền phân lập” mà họ đưa ra có đúng là sản phẩm trí tuệ, là kết quả nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo của họ hay chỉ là nhặt nhạnh mấy cái quan điểm cũ rích về chế độ dân chủ tư sản, về chế độ đa đảng để đưa vào Việt Nam? Mục tiêu chính trị của họ là gì? Họ muốn trở thành những người lãnh đạo đất nước, phấn đấu vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân hay chỉ là những kẻ “làm chính trị”, bằng đầu lưỡi, chuyên “ăn theo, nói leo”. Những người này liệu có tài cán gì không? đạo đức thế nào? nguồn gốc xuất thân và quan hệ xã hội của họ ra sao? Vì thế, nếu tin họ chẳng khác gì là “gửi trứng cho ác”, là “bán linh hồn cho quỷ”. Dựa vào cái gì để có thể tin được họ đây? Họ có dám chịu trách nhiệm về những giải pháp mà họ đề xuất nhằm xây dựng một “Tam quyền phân lập ở Việt Nam hay không? Hay là họ chỉ là những kẻ đứng ngoài xúi bẩy, kích động nhân dân ta làm theo ý tưởng của họ để chống lại Đảng, chống lại chế độ? Nếu thuận lợi thì họ “xuất đầu, lộ diện”, nhận công về mình, còn một khi đất nước rơi vào hỗn loạn, nội chiến đẫm máu, xã hội rối ren, đời sống nhân dân cùng cực… thì họ lại trốn tránh ở nước ngoài, tiếp tục lớn tiếng đổ lỗi cho Đảng, Nhà nước ta, còn họ lại trở thành kẻ “vô can”, “ngoại phạm”.
      Bên cạnh đó, các tổ chức, đảng phái chính trị mà họ đang khuyến khích thành lập là những đảng gì, đại diện cho các giai cấp, các lực lượng xã hội nào? các đảng này có thực sự phấn đấu vì nhân dân hay chỉ lo tranh giành quyền lực chính trị trên đầu, trên cổ nhân dân ta, chuyên làm “áp phe chính trị”, trục lợi chính trị? Liệu khi thực hiện Tam quyền phân lập có dẫn đến tình trạng các tổ chức, các đảng chính trị của các lực lượng phản động, ô hợp mọc lên như nấm sau trận mưa rào và thi nhau tranh giành quần chúng, đấu đá lẫn nhau, sử dụng nhân dân như những con bài chính trị để đạt được lợi ích của chúng? có hay không những tổ chức chính trị phản động bấy lâu nay hoạt động lén lút ở nước ngoài nay công khai nhảy về Việt Nam để lập ra đủ thứ tổ chức, đảng phái  phản động, chống cộng?
Vì vậy, người đọc hết sức cảnh giác về đối tượng Nguyễn Đình Cống với bài viếtNỗi khổ chẳng đáng thương. Nội dung xuyên tạc, nói xấu Quy định 205 – QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền; xuyên tạc tình hình nội bộ Đảng; cổ súy cho cái gọi là chế độ “Tam quyền phân lập”. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nêu cao cảnh giác, không để mắc mưu kẻ thù, tất cả những gì chúng tuyên truyền chỉ là chiêu bài lừa mị nhân dân, nhằm mục tiêu xóa bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong tình hình hiện nay mà thôi./.