Như chúng ta
đều biết, không phải chỉ có Việt Nam sử dụng Luật An ninh mạng, mà đã có 138
quốc gia (trong đó có 95 nước đang phát triển) đã ban hành Luật An ninh mạng.
Việc ban hành Luật An ninh mạng tại Việt Nam là phù hợp với tinh thần của Hiến
chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn về quyền con người của Đại hội đồng Liên hợp
quốc (1948) và các văn bản khác có liên quan, phù hợp với Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và phù hợp với xu thế của thế giới, góp phần đắc
lực trong việc triển khai bảo đảm an ninh mạng, phòng ngừa, đấu tranh với các
hoạt động sử dụng Internet để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội.
Luật An ninh
mạng không ngăn cản, xâm phạm quyền tự do ngôn luận của công dân. Vì, các hoạt
động liên lạc, trao đổi, đăng tải, chia sẻ thông tin vẫn diễn ra bình thường
trên không gian mạng, không hề bị ngăn cản, cấm đoán miễn là những hoạt động đó
không vi phạm pháp luật của Việt Nam. Công dân có thể làm bất cứ điều gì trên
không gian mạng mà pháp luật Việt Nam không cấm. Luật An ninh mạng bảo vệ cho
các hoạt động tự do ngôn luận, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân.
Các quy định của Luật An ninh mạng, bảo đảm thông tin cá nhân được bảo vệ chặt
chẽ. Các cơ quan chức năng có trách nhiệm bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư của cá nhân và tổ chức trên không
gian mạng. Các hành vi như chiếm đoạt, mua bán, thu giữ, cố ý làm lộ, xóa, làm
hư hỏng, thất lạc, thay đổi, đưa lên không gian mạng những thông tin thuộc bí
mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư của người
khác mà chưa được phép của người sử dụng hoặc trái quy định của pháp luật sẽ bị
chế tài xử lý.
Luật An ninh mạng với các quy định cụ thể để bảo vệ an
ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng. Tại Điều
8 Luật An ninh mạng quy định cấm các hành vi sau: “1. Sử dụng không gian mạng để
thực hiện hành vi sau đây: a) Hành vi quy định tại khoản 1 Điều 18 của Luật này; b) Tổ chức, hoạt
động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người
chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; c) Xuyên tạc lịch sử,
phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm
tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; d) Thông tin sai sự
thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã
hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công
vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;
đ) Hoạt động mại dâm,
tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá
hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;
e) Xúi giục, lôi kéo,
kích động người khác phạm tội. 2. Thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm
mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián
đoạn, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh
quốc gia. 3.
Sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản
trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính,
hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện
tử; phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng viễn thông,
mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển
thông tin, phương tiện điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông, mạng
máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ
liệu, phương tiện điện tử của người khác. 4. Chống lại hoặc cản
trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công, vô hiệu hóa trái
pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng. 5. Lợi dụng hoặc lạm
dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân hoặc để trục lợi. 6. Hành vi khác vi phạm quy định của Luật này”
Tại Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị 1966 (Việt Nam là thành viên) quy định: “1. Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can
thiệp; 2.
Mọi người có quyền tự do ngôn luận; 3. Việc thực hiện những quyền này kèm theo những
nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt để: (a)
Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác, (b) Bảo vệ an ninh quốc
gia hoặc trật tự công cộng,sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội.”
Còn trong hệ thống pháp luật Việt Nam, quyền tự do
ngôn luận cũng được quy định thống nhất. Trong các bản Hiến pháp 1946, 1959,
1980, 1992, 2013, quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền tự do ngôn
luận nói riêng được ghi rõ và bảo đảm trong thực tế. Quyền tự do ngôn luận chỉ
hạn chế các hành vi gây tổn hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
và xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Hiện nay, Điều
14 Hiến pháp 2013 quy định: “1. Ở nước CHXHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Đồng thời Hiến pháp 2013 đã dành hẳn một chương để quy
định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều 25 Hiến
pháp quy định: “Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập
hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
Thể chế hóa Hiến pháp 2013, các
văn bản Luật của nước ta như: Luật Báo chí 2016; Luật Tiếp cận thông tin 2016
cũng quy định thống nhất theo hướng quyền tự do ngôn luận của công dân được tôn
trọng và bảo đảm, đồng thời quyền này sẽ bị hạn chế nhất định để đảm bảo an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Luật Báo chí 2016 quy định: “Công dân có quyền
sáng tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phát biểu ý kiến về
tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước…” nhưng
tạiĐiều 9Luật này cũng quy định rõ các hành vi nghiêm cấm: Đăng, phát thông tin
chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam như xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền
nhân dân; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; gây chia rẽ giữa các tầng lớp
nhân dân, giữa nhân dân với chính quyền, với lực lượng vũ trang, với tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; phá hoại chính sách đoàn kết quốc tế; kích
động chiến tranh nhằm chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước
CHXHCN Việt Nam; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân
tộc, anh hùng dân tộc.
Luật tiếp cận thông tin 2016 quy định: “Mọi công dân đều bình
đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin;
thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải
kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; đúng trình tự, thủ tục theo quy
định của pháp luật; việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin phải do luật định
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Việc thực hiện quyền tiếp
cận thông tin của công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc của người khác”.
Qua các trích dẫn trên đây cho
thấy, quyền tự do ngôn luận không phải là không có giới hạn, quyền này được
pháp luật quốc tế và pháp luật nước ta ghi nhận và bảo đảm thực hiện nhưng sẽ
bị hạn chế trong trường hợp vì lý do quốc phòng, đảm bảo an ninh quốc gia, trật
tự an toàn xã hội. Do đó, việc Điều 8 Luật An ninh mạng nghiêm cấm các hành vi
nêu trên là hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế và hệ thống pháp luật nước
ta, không vi phạm quyền tự do ngôn luận. Việc nhân dân quyền tự do ngôn luận để
làm phương hại đến an ninh quốc gia, đến quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân khác phải được xử lý. Do đó, việc Luật An ninh mạng quy định các
hành vi bị cấm tại Điều 8 là hoàn toàn phù hợp./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét