Thứ Hai, 31 tháng 7, 2023

NÂNG CAO CẢNH GIÁC TRƯỚC NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC ĐƯỜNG LỐI NGOẠI GIAO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY


Hiện nay trên mạng xã hội xuất hiện những bài viết mang quan điểm sai trái của các đối tượng thù địch, cơ hội chính trị xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, chúng tìm mọi cách phủ nhận những thành tựu của công tác đối ngoại, xuyên tạc quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và quan hệ của Việt Nam với các nước khác trên thế giới; xuyên tạc đường lối, phương châm đối ngoại, hòng gây chia rẽ trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới, hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Những động thái trên không có gì mới và không nhằm mục đích nào khác ngoài việc tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam, đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc, chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam với các nước đối tác, nhất là các nước lớn, các nước láng giềng, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước của chúng ta.

Những năm qua, đặc biệt là trong 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, thế và lực của Việt Nam được nâng lên rõ rệt, có những bước tiến quan trọng trong công tác đối ngoại. Quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Công tác đối ngoại của Đảng cùng ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân kết hợp hài hòa đã tạo nên những thắng lợi to lớn trên mặt trận ngoại giao, góp phần tạo nên môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng, nhất quán là độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, hội nhập quốc tế. Mục đích của Việt Nam là tạo được lợi ích chung với các nước, đó là duy trì hòa bình, ổn định. Chủ trương và cách giải quyết đó của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân cũng như toàn xã hội, được dư luận quốc tế đồng tình, ủng hộ.

Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Có thể thấy, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là rất rõ ràng, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Mỗi người chúng ta cần phải nâng cao cảnh giác và chủ động phản bác đối với các luận điệu sai trái, xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng mà các thế lực thù địch, phản động đang rêu rao trên các trang mạng xã hội nhằm phá vỡ sự ổn định và phát triển của đất nước.

ĐQ11

Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2023

VỊ TRÍ HẾT SỨC TO LỚN TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH

 

Bảo vệ nền tảng tư tưởng hiện nay xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới và nhất là từ sự điên cuồng chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động luôn xác định chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận là một "mũi đột phá", là "vũ khí lợi hại" của chúng trong chiến lược chống phá cách mạng Việt Nam.

Chúng tấn công trực diện cả về lý luận và thực tiễn, đánh vào cơ sở của sự ra đời đến quá trình vận động, phát triển của chủ nghĩa Marx-Lenin và việc vận dụng trong thực tiễn; xuyên tạc, phủ nhận, đòi loại bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng công kích toàn bộ nội dung, các bộ phận cấu thành chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, triệt để tận dụng một số vấn đề trong quá khứ có những lúc chúng ta hiểu chưa đúng, vận dụng chưa tốt để chống phá.

Chúng tập trung vào những luận điểm, những nguyên tắc lý luận cơ bản, then chốt như phép biện chứng duy vật; học thuyết hình thái kinh tế-xã hội; học thuyết giá trị thặng dư; học thuyết giai cấp, đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội; sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội v.v.

Với chủ nghĩa Marx-Lenin, chúng đưa ra cách "lập luận" kiểu "logic hình thức", rằng "bản chất thời đại đã thay đổi nên đường lối của Đảng phải thay đổi theo"; "chủ nghĩa Marx ra đời cách đây đã hơn 150 năm, Đảng không thể cứ khư khư giữ lấy "cái học thuyết đã lỗi thời đó". Có kẻ còn cho rằng nếu chỉ nhấn mạnh "kiên định", "kiên trì" sẽ coi nhẹ đổi mới. "Phải làm một cuộc chiến lớn "tự giải phóng" để thoát ra khỏi những khuôn khổ tư tưởng và cơ chế do chính chúng ta lập nên nhưng nay đã quá chật hẹp"; rằng việc kiên định chủ nghĩa Marx-Lenin như một cái "thòng lọng ý thức hệ", "các nước theo chủ nghĩa Marx-Lenin đều nghèo đói, chậm phát triển" và đó là "khúc cong của lịch sử, là đoạn vòng vèo đầy đau khổ đi lên chủ nghĩa tư bản" để rồi từ đó họ "khuyên" chúng ta hãy đi theo con đường khác - con đường tư bản chủ nghĩa.

Về thủ đoạn chống phá, chúng chuyển từ bôi nhọ bằng luận điệu "du nhập ngoại lai", "nhập khẩu lý luận" sang đánh tráo, thay thế các khái niệm, thổi phồng cái gọi là "chủ thuyết phát triển mới", đối lập chủ nghĩa Marx với chủ nghĩa Lenin, kêu gọi dùng "chủ nghĩa Hồ Chí Minh" để thay thế chủ nghĩa Marx-Lenin. Chúng trích dẫn một cách cắt xén lý luận Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đan cài gài bẫy bằng những quan điểm giả danh chủ nghĩa Marx, làm cho người đọc không phân biệt được đúng-sai, lẫn lộn, mất phương hướng.

Một số biện pháp đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

 Bước vào thời kỳ cách mạng mới hiện nay, để công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ngày càng nâng cao chất lượng và hiệu quả, cần phải tập trung thực hiện tốt nhiều nội dung.

Một là, tập trung nghiên cứu làm sâu sắc hơn bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Cần chú ý tới những vấn đề vận dụng chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng xã hội mới. Tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản, những giá trị bền vững, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; chỉ rõ những vấn đề cần phải nhận thức lại, phải bổ sung, phát triển cho phù hợp với bối cảnh và điều kiện mới. Đây là nhiệm vụ quan trọng, bảo đảm sức sống mới cho nền tảng tư tưởng.

Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục, làm cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận rõ vai trò, vị trí, những nội dung cơ bản, giá trị to lớn của chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng thấm sâu vào đời sống chính trị, tinh thần của xã hội; tuyên truyền rộng rãi, có chiều sâu trong nhân dân, nhất là giới trẻ về lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng và lịch sử Đảng. Khẳng định vững chắc các quan điểm có tính nguyên tắc, mang ý nghĩa sống còn của Đảng ta, đó là: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ba là, làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy định. Quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là về tư tưởng, đạo đức, lối sống; chú trọng quản lý về danh tiếng, hình ảnh và quản lý phát ngôn.

Bốn là, đẩy mạnh quản lý nhà nước về truyền thông, báo chí, nhất là trên không gian mạng. Tổ chức các trang mạng, các kênh truyền thông lan tỏa những tấm gương người tốt việc tốt, những cách làm hay, điển hình tiên tiến để "lấy cái đẹp dẹp cái xấu"; mở rộng thêm những trang, nhóm trực diện đấu tranh phản bác có lập luận sắc bén, "chắc tay", nhân văn; từng bước giành thế chủ động, làm chủ thế trận tiến công trong đấu tranh phản bác. Khẩn trương hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý các hoạt động trên không gian mạng, tạo sự cảnh báo, răn đe và xử lý nghiêm các vi phạm.

Năm là, đa dạng hóa nội dung, phương thức, hình thức đấu tranh với nhiều cấp độ, phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu để định hình, thiết lập hệ thống luận cứ, luận điểm đấu tranh phản bác; chú ý nhận diện những vấn đề mới, những âm mưu thủ đoạn các thế lực thù địch thường tập trung chống phá để xây dựng luận cứ khoa học thuyết phục.

Sáu là, tăng cường các giải pháp công nghệ, kỹ thuật để phát hiện sớm, ngăn chặn tận "gốc" nguồn phát tán những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch; ngăn chặn các trang mạng độc hại.

Bảy là, làm tốt công tác sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm, bồi dưỡng, nhân rộng những mô hình hay, những cách làm sáng tạo, những điển hình tiên tiến trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; chia sẻ kinh nghiệm, khen thưởng những cá nhân có thành tích xuất sắc trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trá

                                                                                          TT11

CẢNH GIÁC VỚI CHIÊU TRÒ LỢI DỤNG TỔ CHỨC NGƯỜI LAO ĐỘNG ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA


Thực tiễn những năm qua cho thấy, các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị ráo riết tuyên truyền, chủ yếu tác động về mặt tâm lý, kích động một bộ phận người dân thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết chưa đầy đủ nhẹ dạ, cả tin để chống phá. Chúng tập trung móc nối, lôi kéo mọi giai tầng xã hội nhằm hình thành lực lượng chính trị đối lập.  Trong khi đó hiệu quả hoạt động của các tổ chức công đoàn cơ sở và các tổ chức đại diện của người lao động trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng, phát huy quyền làm chủ của công nhân, người lao động chưa được như mong muốn. Công tác tham mưu, phối hợp nắm tình hình để giải quyết các vấn đề bức xúc, phức tạp liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân, người lao động của công đoàn còn có những mặt bất cập, hạn chế, chưa kịp thời. Lợi dụng thực tế đó, các thế lực thù địch tìm cách tuyên truyền kích động người lao động, khoét sâu thêm mâu thuẫn giữa người lao động với giới chủ doanh nghiệp và người sử dụng lao động; xuyên tạc chủ trương, đường lối trong triển khai các chương trình, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; xuyên tạc bản chất của Nhà nước ta; tập hợp lực lượng, âm mưu từ tụ tập đông người hòa bình chuyển hóa sang bạo loạn hòng lật đổ chính quyền nhân dân, chống phá Đảng, Nhà nước. Không chỉ dừng lại ở một khu công nghiệp, một doanh nghiệp ở một địa phương, các thế lực thù địch luôn tìm cách lan rộng việc đình công, bãi công đòi quyền lợi của người lao động sang các khu công nghiệp, công ty, doanh nghiệp và địa phương khác, làm gia tăng mức độ phức tạp của tình hình, gây mất trật tự công cộng, qua đó tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

Phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo quyệt, quyết liệt và trắng trợn hơn. Hoạt động chủ yếu tập trung vào thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị trong nước, sự kiện đối ngoại quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, hoặc thời điểm xảy ra các vụ, việc phức tạp, nhạy cảm. Chúng lợi dụng mâu thuẫn giữa người lao động với người sử dụng lao động về các vấn đề như: Tiền lương thấp, giờ làm chưa hợp lý, áp lực công việc và doanh số quá cao, thưởng tết thấp hoặc trừ các khoản phụ cấp một cách vô lý, khó hiểu, các quy định cứng nhắc, khắt khe, chất lượng bữa ăn không bảo đảm dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm, vi phạm các quy định về an toàn lao động... từ đó kích động người lao động tụ tập đông người, kéo đi khiếu kiện, đình công.

Đình công là hiện tượng khách quan, phổ biến, xuất hiện từ lâu trong đời sống chính trị - xã hội của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đình công là vũ khí mà tập thể người lao động sử dụng để gây sức ép nhằm đạt được những yêu cầu đặt ra trong quan hệ lao động. Ở góc độ tích cực, đình công có ý nghĩa quan trọng không chỉ bảo vệ quyền lợi của người lao động góp phần tạo ra môi trường lao động dân chủ, công bằng, bình đẳng mà còn nhằm tìm ra những giải pháp hay cho các vấn đề về chính sách kinh tế - xã hội. Bản chất của đình công là một hình thức đấu tranh có tổ chức, hòa bình, công khai của người lao động. Chính bản chất này đã giúp cho đình công được các quốc gia trên thế giới công nhận, ủng hộ, bảo vệ và bảo đảm thực hiện. Nhưng điều đáng nói là trên thực tế các thế lực thù địch thường tìm cách móc nối với những lao động đứng ra tổ chức các cuộc đình công, bãi công, nhất là các đối tượng quá khích để tác động, lôi kéo, đồng thời lợi dụng triệt để mạng internet, các ứng dụng Zalo, YouTube, Facebook, blogger… xuyên tạc và tập hợp những người lao động thành lập “Công đoàn độc lập Việt Nam”. Việc các thế lực xấu kêu gọi thành lập “Công đoàn độc lập” để bảo vệ quyền lợi của người lao động nghe qua có vẻ hợp lý, song ẩn chứa đằng sau đó là những âm mưu, toan tính thâm độc, hòng từng bước luồn lách một cách tinh vi, hướng tới thành lập một “tổ chức chính trị” đối lập nhằm chống đối lại đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tiến tới xóa bỏ công đoàn cơ sở và cuối cùng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Qua nghiên cứu các cuộc đình công ở nước ta cho thấy, nhiều cuộc đình công diễn ra không theo quy định của pháp luật. Một số vụ người lao động tham gia đình công đã bị kẻ xấu lợi dụng, kích động dẫn đến có hành vi quá khích vi phạm pháp luật, chống người thi hành công vụ, đập phá, hủy hoại tài sản của doanh nghiệp, làm ngưng trệ sản xuất, kinh doanh, gây thiệt hại không nhỏ cho doanh nghiệp, gây mất trật tự công cộng./.

HH11

Đấu tranh vấn đề lợi dung quyền con người để chống phá chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam


Việc bảo đảm, thúc đẩy các quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam, được thực hiện phù hợp với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam cũng như với các công ước quốc tế về quyền con người. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm theo đúng pháp luật. Các vụ án thời gian qua đều được khởi tố, điều tra và truy tố một cách có căn cứ và đúng pháp luật, bảo vệ đầy đủ các quyền của công dân. Vì vậy, không thể quy kết công an bắt người trái pháp luật hay vi phạm quyền tự do dân chủ. 

Công tác nhân sự của Đảng ta được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, chuẩn bị công phu, cách làm cẩn trọng, dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Những ý kiến về việc dàn xếp, sắp đặt cán bộ mà các đối tượng cơ hội chính trị đưa ra chỉ là những chiêu trò xuyên tạc, kích động, gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của lãnh đạo cấp cao và niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm đến đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, với quyết tâm chính trị cao, nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh đối với hành vi tham nhũng với phương châm “Sai phạm đến đâu xử lý đến đó, không có “vùng cấm”, không có ngoại lệ, không dung túng. Các vụ án liên quan đến tham nhũng đều do sự tha hóa quyền lực và lòng tham của cá nhân. Do đó, không thể đổ lỗi là do chế độ, Đảng, Nhà nước. 

Theo đánh giá mới đây của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng tiếp tục được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả rõ rệt, có mặt cao hơn năm trước, với quyết tâm mạnh mẽ, không ngừng nghỉ, không vì chống dịch mà chùng xuống. Các cơ quan chức năng cũng được yêu cầu tập trung lực lượng, khẩn trương, quyết liệt, mở rộng điều tra làm rõ bản chất của các vụ án, xử lý nghiêm các sai phạm theo quy định của pháp luật; không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không chịu bất kỳ sự can thiệp trái pháp luật của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào.

Hiện các cơ quan chức năng đang khẩn trương điều tra, làm rõ các vụ án để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật; đồng thời rà soát, thu hồi triệt để tài sản cho Nhà nước. Ủy ban Kiểm tra Trung ương tiến hành kiểm tra dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên có liên quan để kịp thời xử lý theo quy định. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khẩn trương kiểm tra, thanh tra, điều tra xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực.  

Việc xử lý các vụ án thời gian qua một lần nữa chứng minh cho chủ trương “kiên quyết, không có vùng cấm, không có ngoại lệ” của Đảng, Nhà nước; sự vào cuộc đồng bộ, mạnh mẽ, quyết tâm cao trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của cả hệ thống chính trị, chứ không phải “khẩu hiệu suông, mị dân” như luận điệu của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. 

Đồng thời, với tính chất phức tạp, khó khăn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, cũng như âm mưu của kẻ địch lợi dụng các vụ án để chống phá Đảng, Nhà nước, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân phải luôn nâng cao cảnh giác, đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn, xuyên tạc phá hoại công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, không để bị lôi kéo, kích động./.

HH11

 

Cảnh giác trước thủ đoạn lợi dụng các vụ án để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam


Với sự phát triển của công nghệ nói chung, internet nói riêng, một số tổ chức, hội nhóm phản động như Việt Tân, Hội Anh em dân chủ; các hãng truyền thông hải ngoại vốn thiếu thiện chí với Việt Nam như RFA, RFI, VOA… lợi dụng việc cơ quan điều tra khởi tố, điều tra các vụ án, đã đăng tải nhiều thông tin bịa đặt, xuyên tạc bản chất vụ việc, chống phá Đảng, Nhà nước với các thủ đoạn tinh vi. 

Vừa qua, sau khi công an Thành phố Hồ Chí Minh khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thực hiện lệnh bắt bị can để tạm giam đối với bà Nguyễn Phương Hằng, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Đại Nam, về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, quy định tại Điều 331 Bộ luật Hình sự, các phần tử cơ hội chính trị đã xuyên tạc bản chất vụ việc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước. RFA cho rằng, việc bắt bà Phương Hằng theo Điều 331 là “không hợp lý”. Việt Tân thì vu cáo “Công an sử dụng Điều 331 để khởi tố bà Phương Hằng là sai trái”; “quyền tự do dân chủ bị bóp nghẹt”.

Một số trang mạng xã hội của các tổ chức, hội nhóm ngoài nước, hãng thông tấn lợi dụng các vụ án tung ra những luận điệu bôi xấu chế độ. Nhiều bài viết vu cáo Việt Nam chống tham nhũng bằng cách hô hào khẩu hiệu, đổ lỗi việc để xảy ra những vụ án như vậy là do chế độ, Đảng, Nhà nước. RFA viết rằng, “Vụ Việt Á, mọi việc trở nên tồi tệ”. Chúng còn hạ thấp vai trò của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn phỏng vấn, phát tán các video, hình ảnh, bài viết với nội dung sai trái, cực đoan của những đối tượng gắn mác chuyên gia, học giả, những cá nhân tự cho mình là những “nhà phản biện” để ra sức bóp méo, đả phá xung quanh vụ án. Chúng cho rằng “Ban Chỉ đạo vào cuộc chỉ để giải quyết hậu quả”, tệ nạn tham nhũng bị “thủng từ gốc”; công cuộc phòng, chống tham nhũng “chỉ trên khẩu hiệu”, không đạt kết quả đáng kể nào do “chế độ độc đảng”. 

Với những thông tin sai lệch, suy diễn, bịa đặt, xuyên tạc, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị hòng bóp méo chủ trương phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta. Từ đó gây tâm lý hoài nghi, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ. Đồng thời, phá hoại sự đoàn kết trong Đảng, chia rẽ cán bộ, đảng viên với nhân dân và sự đồng thuận trong xã hội.

HH11

MÊ TÍN DỊ ĐOAN, BÀI TRỪ MÊ TÍN DỊ ĐOAN


Mê tín dị đoan là một hủ tục ở Việt Nam là một dạng thức tín ngưỡng dân gian xuất hiện từ lâu đời. Trong cuộc sống hiện đại, nhất là thời đại công nghệ 4.0 cùng với sự phát triển không ngừng của đất nước trên mọi lĩnh vực, thì hiện tượng mê tín dị đoan vẫn còn tồn tại, biến tướng dưới nhiều hình thức tinh vi, đánh vào tâm lý nhẹ dạ, cả tin và sự thiếu hiểu biết của nhiều người. Đáng chú ý, hiện nay, nhiều hoạt động “mê tín, dị đoan” núp bóng dưới danh nghĩa “phong tục tập quán”, “tín ngưỡng, tôn giáo” trở nên khó kiểm soát. Không ít người dân vì không phân biệt được giữa “tín ngưỡng, tôn giáo” và “mê tín, dị đoan” tham gia và hoạt động trái với thuần phong mĩ tục của dân tộc, thậm trí đã có hành vi vi phạm pháp luật.

Trên thế giới, dân tộc nào cũng có tín ngưỡng, văn hóa, niềm tin tôn giáo của riêng mình. Các tôn giáo hay tín ngưỡng dân gian, dù tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng đều có lịch sử hình thành và phát triển qua nhiều thế kỷ. Cho dù một số tôn giáo, tín ngưỡng có những yếu tố huyền ảo, mang tính truyền thuyết, thì mục đích chung hướng tới vẫn là niềm tin bất diệt về một đấng thiêng liêng, siêu nhiên, có quyền năng ban thưởng cho những hành động đẹp, những con người tốt bụng, hay trừng phạt những việc làm xấu, những kẻ độc ác… Qua đó, đức tin đã giúp con người tự răn mình, điều chỉnh hành vi, cách ứng xử; hay noi theo những tấm gương sáng; phản bác, lên án những kẻ xấu. Tựu trung là tôn giáo hay tín ngưỡng nào cũng đều nhằm hướng con người tới những giá trị tốt đẹp “Chân- Thiện- Mỹ”.

Tuy nhiên, hiện nay có một nghịch lý là khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, thì “phú quý sinh lễ nghĩa”, đi kèm theo đó là không ít những tệ nạn mê tín dị đoan cũng nở rộ như nấm sau mưa. Các hình thức: bói toán, đồng cốt, gọi hồn… tưởng như đã được dẹp bỏ, giờ lại có chiều hướng gia tăng, khó kiểm soát và nhanh chóng lây lan trong mọi tầng lớp xã hội, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa. Nhiều việc làm mang ý nghĩa tốt đẹp ban đầu giờ bị biến tướng tinh vi dưới nhiều hình thức gây tốn kém tiền bạc, vừa “tiền mất tật mang”, vừa làm mất đi ý nghĩa trong sáng, tốt đẹp ban đầu của nghi thức truyền thống… Nghiêm trọng hơn để chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta, thế lực thù địch, phản động, lợi dụng sự mê muội, tin theo các luận điệu mê tín dị đoan để thực hiện hành vi truyền bá tư tưởng, truyền đạo trái phép, làm nhũng nhiễu suy nghĩ, chính kiến của mỗi người, dụ dỗ, lôi kéo những người ít hiểu biết hoạt động vi phạm pháp luật ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn, văn minh của xã hội…

Trong tình hình hiện nay, xu thế hội nhập và phát triển, tác động của cách mạng khoa học công nghệ, bên cạnh thời cơ để xây dựng và phát triển đất nước, cúng đặt ra nhiều thách thức. Trong đó, đấu tranh phòng, chống mê tín dị đoan là cuộc chiến dài lâu, đòi hỏi sự kiên trì, nhẫn nại và khéo léo. Đòi hỏi sự chung tay góp sức của các cấp, các ngành trong hệ thống và toàn thể nhân dân, trong đó cần nâng cao nhận thức cho mỗi người dân chấp hành nghiêm chỉnh Pháp luật, nâng cao tinh thần cảnh giác, không tin, không nghe, không tham gia các hoạt động mê tín, dị đoan; kiên quyết phát hiện, đấu tranh, xử lý, bài trừ mê tín, dị đoan để đời sống tâm linh tín ngưỡng của dân tộc luôn phát huy được các giá trị tích cực vốn có từ hàng nghìn đời nay. Chúng ta tôn trọng, bảo vệ, phát huy những giá trị thiêng liêng, bản chất tốt đẹp, nhân văn của tôn giáo, tín ngưỡng dân gian, thực hiện tốt đường lối quan điểm của Đảng về tự do, tín ngưỡng, đồng thời đấu tranh ngăn chặn, loại bỏ các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan và những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến mọi mặt đời sống xã hội, xây dựng đất nước Việt Nam phát triển hiện đại, văn minh, vừa theo kịp với dòng chảy của thế giới, vừa vẹn nguyên bản sắc đậm nét của dân tộc./.

VB11

PHẬT GIÁO VIỆT NAM ĐỒNG HÀNH CÙNG DÂN TỘC


Mới đây trên một số trang mạng đã phê phán quan điểm phật giáo Việt Nam ngày càng có xu hướng mê tín như trên trang “Luatkhoa”, Văn Tâm có bài viết “Vì sao Phật giáo Việt Nam có xu hướng ngày càng mê tín”, trong đó, Văn Tâm cho rằng “Cuốn theo vòng xoáy ràng buộc lợi ích”, “tín ngưỡng dân gian trỗi dậy”, “Phật giáo thành công cụ chính trị”. Đây là quan điểm hoàn toàn sai trái, phi thực tế ở Việt Nam, nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam. Như chúng ta đã biết, Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên, trong điều kiện xã hội phân chia theo chế độ đẳng cấp bất bình đẳng. Đạo Phật ra đời là sự kế thừa, tiếp nối các trào lưu tôn giáo, triết học nổi tiếng của Ấn Độ cổ đại và được coi là một trong những học thuyết xã hội chống lại sự bất công trong xã hội đương thời.

Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là dạy con người hướng thiện, có tri thức để xây dựng cuộc sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật không công nhận có một đấng tối cao chi phối đời sống của con người, không ban phúc hay giáng hoạ cho ai mà trong cuộc sống mỗi người đều phải tuân theo luật Nhân - Quả, làm việc thiện thì được hưởng phúc và làm việc ác thì phải chịu báo ứng. Đạo Phật còn thể hiện là một tôn giáo tiến bộ khi không có thái độ phân biệt đẳng cấp. Đức Phật đã từng nói: Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ như nhau, không có đẳng cấp trong giọt nước mát cùng mặn. Ngoài ra, đạo Phật cũng thể hiện tinh thần đoàn kết và không phân biệt giữa người tu hành và tín đồ, quan điểm của đạo Phật là Tứ chúng đồng tu, đó là Tăng, Ni, Phật tử nam và Phật tử nữ đều cùng được tu và nếu ai có quyết tâm đều có thể thành tựu như Đức Phật.

Khác với một số tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Phật chủ trương không có hệ thống tổ chức thế giới và hệ thống giáo quyền. Điều này xuất phát từ lý do Đức Phật hiểu rõ sự ham muốn quyền lực của con người, do đó Đức Phật chủ trương không giao giáo quyền quản lý cho ai mà chỉ hướng dẫn đệ tử nương vào giáo lý, giáo luật để duy trì và tồn tại theo hệ thống sơn môn (như dòng họ thế tục ngoài đời).

Thực tế cho thấy, khi nhận thức còn thấp kém, thiếu tri thức khoa học, nhiều người sẽ mặc định về sự tồn tại của thế giới thần linh, ma quỷ, cõi âm theo tư duy của họ. Đó thực chất là sự phản ánh sự thực cõi trần cộng thêm trí tưởng tượng và suy diễn. Vì vậy, mới có chuyện bi hài như mặc cả, hối lộ thánh thần, nhét tiền vào tay tượng Phật, đốt vàng mã nghi ngút, với tư duy trần sao âm vậy, càng nhiều lễ vật, thần linh càng phù hộ nhiều. Nhiều người Việt thiếu tư duy phản biện, rất nhẹ dạ cả tin, dễ dàng tin vào những chuyện đồn thổi nhảm nhí mà không cần kiểm chứng, suy nghĩ.

Khi người ta thiếu niềm tin, cảm thấy bất an trong một xã hội nhiều biến cố, thay đổi bất thường, người ta tìm đến thế giới siêu nhiên, cầu mong sự phù hộ, che chở. Khi người ta không còn tự tin, sẽ tìm đến thần linh, mong có được phép màu đem lại những điều mà bằng khả năng thực tế, khó hoặc không thể đạt được như giàu có, khỏe mạnh, thành đạt, hạnh phúc.

Do đó chúng ta cần phân biệt rõ ràng giữa tín ngưỡng và mê tín dị đoan dó là: Tín ngưỡng là niềm tin, đức tin vào những điều thiêng liêng đem lại sức mạnh tinh thần cho con người. Còn mê tín là tin mù quáng, mê muội, nhảm nhí gắn liền với sự sùng bái, lệ thuộc thái quá, tác động tiêu cực đến xã hội.

Vì vậy, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước trong việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về phòng ngừa mê tín dị đoan, loại bỏ hủ tục lạc hậu, văn hóa phẩm đồi trụy trái với thuần phong mỹ tục; đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống và thực hiện nếp sống văn minh trong đời sống xã hội.

Như vậy, dù trên bình diện lý luận hay thực tế đều cho thấy Phật giáo là một tôn giáo, một thành tố văn hóa có ảnh hưởng đậm nét đến các thành tố khác của văn hóa Việt Nam. Nó giúp con người sống hướng thiện, sống tốt hơn. Vì vậy, mọi người cần tỉnh táo, đề cao cảnh giác, đấu tranh phản bác mọi quan điểm sai trái, thù địch, phản động, đó cũng là phương cách đế bảo vệ chính mình, bảo vệ xã hội và chính là xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo hiện nay./.

TT11

ĐÁNH TRÁO KHÁI NIỆM “NHÂN QUYỀN CAO HƠN CHỦ QUYỀN”


Lâu nay, các nước phương Tây thường rêu rao cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “quyền lực nhà nước ở một quốc gia không được đàn áp nhân quyền”. Về thực chất, quan điểm này đã đối lập quyền con người với chủ quyền. Họ lập luận một cách phi lý rằng, vấn đề quyền con người không thuộc công việc nội bộ của một nước. Thậm chí, một số nước phương Tây còn quy chụp rằng “việc Việt Nam nhấn mạnh chủ quyền quốc gia cao hơn tất cả, trên thực tế là lấy danh nghĩa duy trì chủ quyền quốc gia để duy trì quyền lực thống trị của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Họ còn rêu rao rằng, tuyệt đối hóa tầm quan trọng của chủ quyền quốc gia là sai lầm và ngụy biện bằng viện dẫn báo cáo về an ninh con người của một số tổ chức quốc tế, như Báo cáo phát triển con người của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), cũng nhấn mạnh bảo đảm an ninh cá nhân, mà coi nhẹ, không đề cập đến an ninh quốc gia.

Có thể nói, quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền” là hoàn toàn sai trái. Như chúng ta đã biết, quyền con người không bao giờ tách khỏi điều kiện, trình độ phát triển và chủ quyền của từng quốc gia - dân tộc. Quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền” thực chất chỉ là “bình phong” che đậy cho các âm mưu mà các nước phương Tây lợi dụng để can thiệp vào công việc nội bộ, chủ quyền của nước khác.

Như chúng ta đã biết tôn trọng chủ quyền của các quốc gia là một tiêu chuẩn đã được cộng đồng quốc tế công nhận, cũng là cơ sở và tiền đề để thực hiện quyền con người. Nghị quyết 2625 (XXV) của Đại hội đồng Liên hợp quốc, ngày 24-10-1970, đã đưa ra Tuyên bố về những nguyên tắc của Luật Quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, trong đó khẳng định các nguyên tắc, như nguyên tắc chủ quyền quốc gia, nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của các quốc gia, nguyên tắc không can thiệp vào các vấn đề thuộc thẩm quyền của các quốc gia khác.... Vì vậy, nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực quan hệ quốc tế, bao gồm lĩnh vực quyền con người. Không có chủ quyền quốc gia, cũng như không có luật pháp quốc tế, thì không thể nói đến bảo đảm quyền con người. Quan điểm cho rằng “nhân quyền cao hơn chủ quyền” trực tiếp vi phạm tôn chỉ và nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc. Việc thực hiện quyền con người cần phải dựa vào chủ quyền, do các nước thông qua pháp luật, biện pháp và cơ chế của nhà nước ở từng quốc gia - dân tộc để thực hiện. Các điều ước quốc tế về quyền con người đã quy định quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Để thực hiện tốt các quyền này, cần phải thông qua pháp luật quốc gia cũng như cơ chế bảo đảm của pháp luật quốc gia.

Quyền con người không thể tách rời chủ quyền quốc gia. Quyền con người của cá nhân và chủ quyền quốc gia có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không có chủ quyền thì không thể nói đến quyền con người, mất đi chủ quyền cũng có nghĩa là mất đi sự bảo đảm đối với quyền con người.

Quyền con người mang tính quốc tế, nhưng về bản chất là vấn đề thuộc công việc nội bộ của một quốc gia. Vì vậy, các nước có quyền căn cứ vào tình hình cụ thể của nước mình để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, so với chủ quyền quốc gia, quyền con người nằm ở vị trí phụ thuộc. Như chúng ta đã thấy, trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, chủ quyền quốc gia nằm ở vị trí ưu tiên. Bởi vì, quyền con người của cá nhân chịu sự quy định, chi phối và chế ước của pháp luật quốc gia. Đối với các điều ước quốc tế không phù hợp với chế độ chính trị, cũng như không phù hợp với trình độ phát triển về kinh tế - xã hội, chính phủ các nước có quyền từ chối tham gia hoặc bảo lưu nhằm tránh việc đảm nhận nghĩa vụ điều ước có thể gây tổn hại đến chủ quyền quốc gia. Hiện nay, có khoảng hơn 28 điều ước quốc tế về quyền con người, nhưng Mỹ mới chỉ phê chuẩn 4 điều ước. Đặc biệt, nước này vẫn chưa phê chuẩn một số điều ước cốt lõi về quyền con người, trong đó có Công ước lao động cưỡng bức năm 1930. Lý do được Mỹ đưa ra là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị xung đột với pháp luật của nước này, và bởi “chủ quyền quốc gia của nước Mỹ cao hơn tất cả”. Điều này cho thấy, so với chủ quyền quốc gia, quyền con người chỉ ở vị trí phụ thuộc.

Việc các nước phương Tây rêu rao rằng “nhân quyền cao hơn chủ quyền” thực chất xuất phát từ nhu cầu can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác cũng như thúc đẩy chính trị cường quyền mà thôi. Trên thực tế, nhân danh “dân chủ nhân quyền”, trong những thập niên qua, Mỹ và một số quốc gia đã sử dụng vũ lực can thiệp vào công việc nội bộ, thay đổi chế độ chính trị ở một số nước. Tuy nhiên, thực tế ở các nước sau khi Mỹ “can dự” cho thấy, cái mang lại cho những quốc gia này không hề là “dân chủ nhân quyền”, mà là sự xung đột và hỗn loạn. Chính vì thế, quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền” không hề có giá trị đối với việc thúc đẩy quyền con người, mà trái lại, khiến khả năng xâm hại quyền con người một cách nghiêm trọng hơn./.

LV11

 

CẢNH GIÁC LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ PHÁP LUẬT


Thời gian qua nổi lên việc một số đối tượng cơ hội chính trị, phản động lưu vong, chống phá Nhà nước từ bên ngoài tìm cách cấu kết với các hội nhóm, cá nhân trong nước kêu gọi xóa bỏ một số điều luật vì mục đích chính trị, hòng gây bất ổn xã hội, chống phá chế độ, trong đó có Ðiều 331 Bộ luật Hình sự “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” hiện đang là mục tiêu hướng đến của các đối tượng chống phá. Lợi dụng những sự việc gây chú ý dư luận về phát ngôn, ứng xử, hoạt động xã hội của một số cá nhân, nghệ sĩ, người có tầm ảnh hưởng trên mạng xã hội, những sự việc liên quan đến một số cá nhân bị khởi tố và xử lý theo Ðiều 331 Bộ luật Hình sự..., một số trang mạng phản động lập tức lớn tiếng rêu rao, xuyên tạc, đòi xóa bỏ Ðiều 331 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017).

Cần khẳng định rằng pháp luật Việt Nam được xây dựng phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế và yêu cầu thực tiễn nhằm bảo đảm cho sự phát triển tự do, toàn diện của nhân dân, góp phần xây dựng và duy trì xã hội trong vòng trật tự, ổn định, ngăn chặn các tổ chức và cá nhân lợi dụng quyền tự do, dân chủ để xâm phạm quyền con người. Nhà nước luôn đặt quyền tự do dân chủ của công dân lên hàng đầu, sự tôn trọng và đảm bảo được quy định rõ trong Hiến pháp và các quy định của pháp luật. Ðiều 15, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.

Trong Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Ðiều 331 quy định về “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” là sự cụ thể hóa Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân; giúp điều chỉnh, ngăn chặn, có chế tài đối với các hành vi vi phạm, lệch chuẩn trong các quan hệ xã hội, ngăn ngừa những hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Pháp luật luôn tôn trọng và bảo vệ những tư tưởng, ý chí, nguyện vọng của mỗi tổ chức và cá nhân khi đưa lên công khai trên phương tiện truyền thông, trên mạng xã hội nếu phù hợp với tinh thần xây dựng và thượng tôn pháp luật, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và truyền thống văn hóa của dân tộc. Ðồng thời, nếu những tổ chức và cá nhân sử dụng mạng xã hội với mục đích xấu, động cơ không trong sáng, núp dưới danh nghĩa bảo vệ quyền tự do dân chủ mà thực chất là có những hành vi chà đạp lên quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân khác, xâm phạm đến Nhà nước thì đều phải chịu các chế tài xử phạt tương ứng.

Trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội bản thân mỗi công dân cần nhận thức đầy đủ về Hiến pháp, pháp luật, tích cực tuyên truyền kiến thức pháp luật và nâng cao ý thức trách nhiệm tuân thủ pháp luật trong cộng đồng góp phần tăng cường ý thức, trách nhiệm của công dân đối với xã hội, đất nước, đồng thời đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc bảo vệ sự tôn nghiêm của Hiến pháp, pháp luật.

HH11

 

LUẬN ĐIỆU PHỦ NHẬN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM


Thời gian gần đây, các thế lực thù địch tập trung chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các luận điệu xuyên tạc cho rằng: “mô hình kinh tế nầy là giả tạo, nhất là việc Đảng có thể dùng chủ nghĩa xã hội để định hướng kinh tế thị trường... như thế là trái với quy luật khách quan, rất cần phải được loại bỏ khỏi hiến pháp”. Thực chất đây là một luận điểm chống phá với mưu đồ hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận bản chất tốt đẹp, tính tất yếu khách quan trong xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bởi vì:

Như chúng ta biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ảnh trình độ phát triển của văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường đã hình thành từ xã hội nô lệ, trong xã hội phong kiến có sự phát triển nhất định, đến xã hội tư bản chủ nghĩa kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, đem lại sự giàu có cho các nền kinh tế thị trường hiện đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra, loài người nhất thiết phải trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu lịch sử, song hiện nay kinh tế thị trường đang có những bước phát triển thích nghi với sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, cùng với sự tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội, đòi hỏi các nền kinh tế phải trải qua kinh tế thị trường. Tuy nhiên, tùy thuộc vào đặc điểm, điều kiện của mỗi nước để vận dụng và phát triển kinh tế thị trường, trên cơ sở quy luật vận động chung của kinh tế thị trường, theo định hướng riêng của mỗi nước.

Ở Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại, các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách chống phá. Theo đó, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp chỉ đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Do đó, để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho đi lên chủ nghĩa xã hội, cần phải trải qua thời kỳ quá độ với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986), trên cơ sở đổi mới tư duy, nắm bắt đúng quy luật vận động khách quan của kinh tế thị trường, xu thế phát triển tất yếu của thời đại, vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào điều kiện cụ thể Việt Nam; Đảng ta đề ra chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp. Đại hội VII, VIII của Đảng đều xác định xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; và từ Đại hội IX của Đảng đến nay, cũng như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đều xác định: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp năm 2013 hiến định: Nền kinh tế Việt Nam là nền “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.

Có thể khẳng định lý luận về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện; đó là nền kinh tế thị trường hiện đại; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; với tính ưu việt được thể hiện cả trong sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối; gắn phát triển kinh tế với xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; đó là mục tiêu tốt đẹp mà xã hội loài người đang hướng tới và phấn đấu đạt được.

Chúng tã đã thấy thực tiễn quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hơn 36 năm qua đã chứng minh, từ Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đến nay, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn và toàn diện về mọi mặt; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao. Tổng kết 35 năm đổi mới (1986 - 2020), Việt Nam từ một nước có nền kinh tế kém phát triển, có thu nhập thấp, đã trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh; kinh tế Việt Nam phát triển liên tục từ 1986 đến 2020 với tốc độ trung bình khoảng 7% mỗi năm; thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần. Năm 2021, do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, trong khi nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới tăng trưởng thấp, song Việt Nam vẫn đạt tăng trưởng 2,56%. Năm 2022, Việt Nam lấy lại đà tăng trưởng 8,02%. Đời sống nhân dân được nâng lên, các chính sách an sinh xã hội bảo đảm tốt; chính trị - xã hội đất nước ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững.v.v.

Tóm lại hhững thành tựu đó đã chứng minh đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật vận động khách quan của kinh tế thị trường, xu thế phát triển tất yếu của thời đại và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Cho nên, những luận điệu xuyên tạc mà các thế lực thù địch đưa ra là hoàn toàn xuyên tạc, phủ nhận đường lối lãnh đạo của Đảng, chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy mỗi chúng ta cần tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang đi, kiên quyết đấu tranh với những luận điệu sai trái, phủ nhận phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

LĐ11

 

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VẤN ĐỀ BIỂN ĐẢO


Biển, đảo là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng, phần máu thịt không thể tách rời và có vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách xuyên tạc, kích động, chống phá chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Yêu cầu đặt ra là phản bác và đấu tranh với những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch nhằm góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ quốc gia.

Việt Nam có bờ biển dài trên 3.260km trải dài từ Bắc xuống Nam. Vùng biển, đảo nước ta có hơn 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ được phân bố theo chiều dài bờ biển và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa án ngữ biển Đông… Với tiềm năng kinh tế biển hết sức to lớn, biển đã gắn bó mật thiết và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo vị thế chiến lược quốc phòng - an ninh vững chắc của đất nước. Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước đầy cam go, quyết liệt của dân tộc đã chứng minh vị trí chiến lược, đặc biệt quan trọng của công cuộc phòng thủ quốc gia từ hướng biển. Đảng ta xác định, biển, đảo của Việt Nam có vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020” và Nghị quyết Trung ương 4, khóa X nêu rõ: “… phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển”. Những năm qua, quán triệt quan điểm của Đảng, cả nước đã hướng về biển đảo, chúng ta quán triệt phương châm: kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp chủ quyền biển, đảo thông qua thương lượng hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật Biển năm 1982 và đã đạt được những kết quả rất quan trọng, giữ vững được chủ quyền biển, đảo Việt Nam.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động ở nước ngoài đã lợi dụng các trang mạng xã hội: facebook, Youtube, Twitter, Zalo… xuyên tạc vấn đề chủ quyền lãnh thổ, trong đó có chủ quyền về biển, đảo; lợi dụng những “điểm nóng” trên biển Đông phát tán tài liệu, hình ảnh, video hòng bóp méo sự thật, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam, kích động dư luận. Mục đích của chúng nhằm khuấy động lòng dân, hòng gây mất ổn định tình hình an ninh, trật tự trong nước, chia rẽ mối quan hệ giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước và Quân đội và làm tổn hại đến quan hệ của Việt Nam với các nước liên quan. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị cố tình thông tin sai sự thật hòng bẻ lái dư luận, vu khống trắng trợn rằng: Đảng và Nhà nước không quan tâm đến việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, đặc biệt là chủ quyền biển, đảo; còn tung luận điệu xảo trá, vu cáo “chính quyền Việt Nam làm ngơ về biển Đông”... Chúng đòi “hợp tác với một nước khác để giải quyết tình hình”, đòi hỏi phải “chọn phe” để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, từ đó đánh vào tâm lý hoài nghi của người dân, cho rằng lãnh đạo Đảng, Nhà nước “vì phe này, phe kia” để chủ quyền biển, đảo bị xâm lấn… Đây là những luận điệu xuyên tạc trắng trợn phủ nhận những thành quả đạt được và quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thời gian qua, đồng thời cũng là luận điệu nằm trong âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động luôn chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Do đó, cần nhận diện, bóc trần, phản bác và kiên trì đấu tranh với những chiêu trò suy diễn, xuyên tạc, phê phán đường lối đối ngoại, đường lối bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc.Để xây dựng nước Việt Nam thực sự trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển; đồng thời, tiếp tục nâng cao vị trí, tầm quan trọng của công tác bảo đảm an ninh biển, đảo trong tình hình mới mỗi cán bộ Đảng viên quân nhân trong quân đội  cần thực hiện tốt một số nội dung sau: 

Tiếp tục quán triệt sâu sắc, nâng cao nhận thức chính trị, hành động cách mạng trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân về Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, đặc biệt là bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Kịp thời nắm bắt, xử lý và định hướng thông tin, phát hiện và ngăn chặn những thông tin xấu của các thế lực thù địch chống phá ta. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về chủ quyền biển, đảo nhằm góp phần nâng cao nhận thức đúng, tuân thủ pháp luật. Thường xuyên nắm bắt tình hình dư luận xã hội, thông tin liên quan đến các vấn đề chủ quyền biển, đảo Việt Nam, đặc biệt là tình hình biển Đông để kịp thời phản bác, bóc trần, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên không gian mạng, với những hành vi lợi dụng internet và các trang mạng xã hội nhằm xuyên tạc, kích động dư luận chống phá Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

VK11

 

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC THÀNH TỰU TRONG CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM


Từ nhiều năm nay, lợi dụng những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, nhất là quan hệ của Việt Nam với một số nước lớn và vấn đề chủ quyền biển, đảo của nước ta ở Biển Đông, trên các phương tiện thông tin, nhất là mạng xã hội, các thế lực thù địch và các phần tử chống đối, cơ hội đã tung nhiều thông tin sai lệch, ra sức công kích, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước ta.

Xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước Việt Nam là đã “lạc hậu, lỗi thời”, “không còn phù hợp”, nhất là trong tình hình hiện nay. Không ít cá nhân, nhóm cá nhân tự xưng là “người yêu nước”, “tâm huyết” với “vận mệnh quốc gia dân tộc” đã viết bài phát tán trên mạng xã hội với những giọng điệu xuyên tạc. Họ lập luận rằng, thế giới hiện nay đang là thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, các quốc gia, dân tộc có mối quan hệ ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau. Vì thế theo họ, nếu vẫn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ là “bảo thủ”, “tự mình cô lập mình”, là “tự tách ra khỏi dòng chảy” của thế giới bên ngoài, chính sách đối ngoại đó đã thực sự “lạc hậu, lỗi thời”, “không còn phù hợp”, và đã trở thành “lực cản” đối với sự phát triển đất nước. Họ cho rằng, Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” (không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) là “tự trói tay mình”, là chính sách “không phù hợp với thực tế, cần phải thay đổi”, nếu không thì không thể bảo vệ được độc lập, chủ quyền của đất nước.

Bóp méo sự thật, xuyên tạc rằng, Đảng và Nhà nước Việt Nam trên thực tế đã từ bỏ chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và đang ngấm ngầm “theo chân” nước này để chống nước kia. Họ xuyên tạc chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, cân bằng quan hệ với các nước lớn của Việt Nam, cho rằng đó là “đường lối trung dung”, là “đi dây” trong quan hệ với các nước lớn, như thế là “tự cô lập” mình, “tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Lợi dụng một số hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong thời gian qua, nhất là khi Việt Nam đẩy mạnh quan hệ với Mỹ và Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên được tổ chức tại Hà Nội (tháng 02-2019), một số thế lực cố tình xuyên tạc Việt Nam “đang ngấm ngầm “theo chân” nước này chống nước kia”, Việt Nam đã “nghiêng về bên này để chống bên kia”, đã “từ bỏ” chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của mình.

Xuyên tạc mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước, nhất là mối quan hệ của Việt Nam với Mỹ và với Trung Quốc. Các thế lực thù địch và một số phần tử cơ hội trắng trợn xuyên tạc rằng, Việt Nam đang phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, Việt Nam đang điều chỉnh quan hệ đối ngoại nhằm “tìm kiếm đối tác chiến lược”, “thiết lập liên minh mới” để đối phó với nước đang gây áp lực bất lợi cho mình. Họ “kiến nghị” Đảng và Nhà nước Việt Nam phải từ bỏ chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ; rằng muốn bảo vệ được độc lập, chủ quyền thì phải dựa vào một cường quốc, “chỉ có liên minh quân sự với một cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền biển, đảo”.

Hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn của thời đại, dù đang gặp những trở ngại, thách thức. Mỗi nước trên thế giới đều có quan hệ với các nước khác, nhất là chú trọng quan hệ với các nước lớn với những nội dung, hình thức và mức độ khác nhau. Đó vừa là xu thế, vừa là phương thức cơ bản bảo đảm an ninh và phát triển của mỗi nước. Phù hợp với xu thế đó, gần 35 năm qua, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Do vậy, cần khẳng định rằng, chỉ có nhất quán và thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, không phụ thuộc vào bất cứ nước lớn hay nhóm nước nào thì chúng ta mới có thể tận dụng tốt nhất các cơ hội, điều kiện thuận lợi phục vụ cho sự phát triển đất nước. Điều đó tuyệt đối không thể gọi là “lạc hậu, lỗi thời”, là “trung dung”, “đi dây” trong quan hệ với các nước lớn.

Trên thực tế, chúng ta đã và đang thúc đẩy quan hệ với các nước lớn cũng như với các nhóm nước, tổ chức trên thế giới. Chúng ta chủ động tham gia các cơ chế, các diễn đàn khu vực và toàn cầu để vừa thích ứng với các trào lưu, xu thế chung của thế giới, vừa phục vụ một cách tốt nhất các lợi ích quốc gia - dân tộc.

Hiện nay, chúng ta vừa tăng cường quan hệ với Trung Quốc, vừa làm sâu sắc hơn quan hệ với Mỹ trên cơ sở mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các nước này ngày càng trở nên tốt đẹp, thực chất và hiệu quả hơn. Đó là quan điểm, lập trường và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam, tuyệt nhiên không phải là chúng ta đang “nghiêng về bên này để chống bên kia” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Ngay từ rất sớm, tư tưởng độc lập, tự chủ đã trở thành “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt và là nguyên tắc cơ bản định hình các hoạt động đối ngoại từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam đến nay. Độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để chúng ta bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc của mình trước mọi tác động của tình hình, trước những biến động của thời cuộc, khẳng định tính đúng đắn của đối ngoại Việt Nam.

Độc lập có nghĩa là chúng ta tự “điều khiển lấy mọi công việc” của mình, “không có sự can thiệp ở ngoài vào”5. Không để bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước ta là nguyên tắc cốt lõi của đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ. Độc lập, tự chủ phải dựa trên cơ sở nội lực, thực lực của đất nước, đồng thời cũng dựa vào hợp tác và hội nhập quốc tế. Trong tình hình mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam “trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế”6, kiên trì chính sách độc lập, tự chủ gắn bó chặt chẽ với thực hiện phương châm tích cực và chủ động trong công tác đối ngoại, với “chủ động, tích cực tham gia các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức, khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước”7. Đó là quan điểm, phương cách giải quyết, xử lý đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.

                                                                                               TT11

CẢNH GIÁC VỚI CHIÊU TRÒ “CÔNG ĐOÀN ĐỘC LẬP”


Cảnh giác với chiêu trò đòi thành lập Công đoàn độc lập của các thế lực thù địch. Vừa qua nhiều bài viết Vì sao Việt Nam vẫn cho rằng công đoàn độc lập là chống phá trên trang mạng xã hội “Vietnamthoibao. Trong đó họ cho rằng cần phải thành lập tổ chức công đoàn độc lập ở Việt Nam. Đây là quan điểm hoàn toàn sai trái nhằm mưu đồ chính trị thấp hèn, từng bước đi đến hình thành một tổ chức đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cần khẳng định ngay đây là sự đánh tráo khái niệm, bịa đặt trắng trợn, bởi thực tế Quốc hội đã thông qua Bộ Luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực ngày 01/01/2021). Bộ Luật Lao động có 01 chương riêng về Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở (TCĐDNLĐ) (chương 13).

Xin nhấn mạnh TCĐDNLĐ tại cơ sở là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của người lao động tại một đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động thống qua đối thoại, thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật. TCĐDNLĐ tại cơ sở bao gồm: 1. Công đoàn cơ sở; 2. Tổ chức của người lao động. TCĐDNLĐ tại doanh nghiệp chỉ có cấp cơ sở - cấp doanh nghiệp, không có hệ thống các cấp như tổ chức công đoàn. Chính vì vậy TCĐDNLĐ không bao giờ được gọi là "công đoàn độc lập, như các thế lực thù địch đánh tráo khái niệm.

Câu hỏi đặt ra là tại sao các thế lực thù địch thông qua những kẻ khoác áo dân chủ nhân quyền thích món công đoàn độc lập đến vậy? Không khó để trả lời câu hỏi này, việc tìm cách cho ra đời “Công đoàn độc lập cùng với những Văn đoàn độc lập, Nhà báo độc lập, Anh em dân chủ... chính là âm mưu tạo dựng lực lượng chính trị đối lập, tiến tới thực hiện mưu đồ thay đổi chế độ chính trị tại Việt Nam.

Thực tiễn ở nhiều quốc gia đã cho chúng ta thấy những bài học đắt giá về việc buông lỏng quản lý đối với phong trào công nhân, đặc biệt khi nó được dẫn dắt bởi các tổ chức công đoàn độc lập với nhà nước. Phong trào công nhân tại Ba Lan được dẫn dắt bởi Công đoàn đoàn kết Ba Lan - tổ chức liên hiệp của các công đoàn độc lập trong xã hội Ba Lan những năm cuối thập niên 80, thế kỷ XX đã dẫn đến mất vai trò lãnh đạo của Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Ba Lan vào năm 1989. Tại Pháp, phong trào “áo vàng” bắt nguồn từ phong trào đình công, biểu tình của công nhân phản đối chính sách về thuế, nhất là chính sách về thuế nhiên liệu của Chính phủ Pháp kéo dài từ tháng 11 /2018 đến tháng 9/2020 đã dẫn đến những hậu quả rất nặng nề khi các cuộc biểu tình, bạo loạn bùng phát trên diện rộng, sau đó lan sang các quốc gia lân cận như Bỉ, Hà Lan. Tại Campuchia, tổ chức Công đoàn tự do đã lôi kéo, kích động hàng chục nghìn công nhân đình công, biểu tình phản đối chính sách của chính phủ, kêu gọi thủ tướng Hun Sen từ chức cũng gây nên những tổn thất nặng nề cho kinh tế - chính trị đất nước.

Ở nước ta, bên cạnh việc kêu gào, cổ súy cho việc ra đời “nghiệp đoàn độc lập” thì tổ chức khủng bố Việt Tân đã công khai mưu đồ thành lập tổ chức này và vận động tổ chức Công đoàn quốc tế công nhận là thành viên chính thức để công khai tổ chức công đoàn độc lập tại Việt Nam; đồng thời kêu gọi, kích động các đối tượng trong nước móc nối, phát triển lực lượng trong công nhân để hình thành các hội, nhóm nghiệp đoàn độc lập trong công nhân nhằm tiến hành hoạt động đình công, biểu tình, gây rối an ninh, trật tự.

Phải thẳng thắn nói rõ. cái gọi là “công đoàn độc lập không đại diện cho quyền, lợi ích của người lao động Việt Nam. Hiện nay, dưới sự hỗ trợ, giúp sức, khua chiêng, gõ trống của một số tổ chức nước ngoài, các con buôn chính trị đang núp bóng bảo vệ người lao động để mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo công nhân và người lao động tham gia các tổ chức bất hợp pháp. Chắc chắn chúng không bao giờ được phép tồn tại trên đất nước Việt Nam, phá hoại cuộc sống bình yên của người dân Việt Nam.

Như vậy, dù trên bình diện lý luận hay thực tế đều cho thấy công đoàn độc lập là một tổ chức bất hợp pháp, không được Nhà nước thừa nhận. Đó cũng là minh chứng khẳng định quan điểm của các thế lực thù địch là xuyên tạc, bịa đặt, hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, gây mất trật tự xã hội và cản trở cuộc sống của người lao động ở nước ta. Vì vậy, mọi người cần tỉnh táo, đề cao cảnh giác, đấu tranh phản bác mọi quan điểm sai trái, thù địch, phản động, đó cũng là phương cách để bảo vệ chính mình và công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay./.

LT11