Với thái độ định kiến cố hữu, đầu tháng 5 vừa qua, Tổ chức Phóng viên
không biên giới tiếp tục đưa ra các luận điệu của những năm trước, khi cho
rằng: “Ở Việt Nam không có tự do báo chí, người dân không được thực hiện quyền
tự do ngôn luận”(!). Đó là sự xuyên tạc trắng trợn về tình hình bảo đảm quyền
tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam. Ngày 03/5/2023, Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) công bố “Bảng
xếp hạng tự do báo chí năm 2023”, trong đó xếp ba nước châu Á là Việt Nam,
Trung Quốc và Triều Tiên đứng cuối bảng (với thứ tự lần lượt là 178, 179 và
180). Giải thích lý do tụt hạng của Việt Nam so với năm 2022 (hạng 174), Tổ
chức này cho rằng: “Do chính quyền Hà Nội gần như hoàn tất việc truy bắt các
nhà báo độc lập và các nhà bình luận trên mạng xã hội”; còn ông Daniel Bastard
- Giám đốc Ban châu Á - Thái Bình Dương của RSF, thì xuyên tạc: “Đó là kết quả
của cuộc đàn áp không ngừng đối với báo chí độc lập dưới nhiệm kỳ của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng”(!). “Nhà báo độc lập” mà RSF nhắc đến ở đây là Đường Văn
Thái, một đối tượng phản động thường xuyên sử dụng mạng xã hội để đăng tải,
phát tán thông tin xuyên tạc, bịa đặt sai sự thật với mục đích chống phá Đảng,
Nhà nước, đã bị bắt giữ ngày 14/4/2023 khi y nhập cảnh trái phép vào lãnh thổ
Việt Nam.
Trên một kênh
truyền thông ở hải ngoại thiếu thiện chí, khi bình luận về Việt Nam gần đây, có
một bài viết về bảng xếp hạng của RSF. Nhưng tổ chức RSF lại không đưa ra được
khái niệm hay cách hiểu nào về tự do báo chí. Nếu họ cho rằng không thể bắt giữ
các nhà báo và cho rằng không ai đáng bị bắt vì lý do tham gia ngôn luận, thì
có lẽ họ đã bỏ qua hoàn toàn việc hoạt động báo chí phải nằm trong khuôn khổ
pháp luật. Với cách lập luận như vậy, họ đang cổ xúy cho ngôn luận tự do, báo
chí tự do mà không chịu bất cứ trách nhiệm xã hội nào.
Trong vụ việc
bắt giữ một nữ nhà báo gần đây, có thể thấy rõ trong thời gian dài, nhà báo này
đã công khai chỉ trích nhiều cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức trên trang cá nhân
của mình, như Công ty Cổ phần Đại Nam, Quỹ Sống Foundation, Mạng lưới Tự kỷ
Việt Nam... với lời lẽ nặng nề nhưng không có căn cứ xác đáng. Núp dưới chiêu
bài “nêu nghi vấn”, “đặt dấu hỏi”, “phân tích giả định”, “đấu tranh chống tiêu
cực”, nhà báo này đã tùy tiện đưa ra những thông tin có nhiều dấu hiệu quy
chụp, phán xét không khách quan, sai sự thật, bất chấp luật pháp và đạo lý.
Ngôn luận tự
do dựa theo những phán đoán, suy diễn chủ quan, ác ý đã dẫn một người từng là
nhà báo kiêm luật sư phải chịu trách nhiệm trước pháp luật vì lợi dụng quyền tự
do dân chủ để xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức khác. Một
số nhà báo, luật sư, người dùng mạng xã hội khác bị bắt cũng có chung vi phạm
pháp luật như vậy.
Khi phê phán,
chỉ trích Việt Nam không có tự do ngôn luận và tự do báo chí, các thế lực thù
địch cũng không chỉ ra được điều luật nào, quy định nào ngăn cản tự do của nhà
báo, mà có xu hướng áp đặt hình mẫu phương Tây cho Việt Nam. Đó là một cách
tiếp cận không có cơ sở khoa học. Nội hàm của tự do ở mỗi quốc gia, mỗi thời
điểm có thể giống nhau về phổ quát, còn lại sẽ mang đặc điểm của mỗi thể chế
chính trị-xã hội. Thực chất, không có nơi nào có tự do tuyệt đối, đây chỉ là
một khái niệm mang tính tương đối và có sự phát triển trong các nền tảng xã hội
khác nhau.
Như vậy, ngôn luận tự do, báo chí tự do theo cách mà các thế lực thù
địch tuyên truyền là đề cao tư tưởng của các cá nhân, không đi kèm trách nhiệm
và các khuôn khổ luật pháp, đạo đức xã hội, không quan tâm hoặc xem nhẹ những
hệ quả gây ra cho xã hội, cộng đồng. Điều đó khác rất xa với tự do ngôn luận,
tự do báo chí chân chính có trách nhiệm với sự phát triển tiến bộ của xã hội và
nhân loại.
Ở Việt Nam,
ngay từ trong cuộc đấu tranh giành độc lập, Mặt trận Việt Minh do lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc đứng đầu đã giương cao ngọn cờ đòi quyền tự do ngôn luận, tự do xuất
bản, tự do tổ chức, tín ngưỡng, đi lại, bác bỏ áp bức bất công của chính quyền
thực dân. Khi giành được chính quyền, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa năm 1946 đã hiến định quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản và các
quyền tự do khác của công dân. Trải qua các lần sửa đổi, bổ sung, Hiến pháp các
năm 1959, 1980, 1992 và gần đây là Hiến pháp năm 2013 luôn nhất quán khẳng định
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Cùng với Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, Luật Báo chí cũng đặt
ra các nền móng cơ bản và thống nhất cho tự do ngôn luận, tự do báo chí. Điều
10 Luật Báo chí năm 2016 quy định: “Công dân có quyền: 1. Sáng tạo tác phẩm báo
chí; 2. Cung cấp thông tin cho báo chí; 3. Phản hồi thông tin trên báo chí; 4.
Tiếp cận thông tin báo chí; 5. Liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm
báo chí; 6. In, phát hành báo in”. Như vậy, dù Việt Nam không có báo chí tư
nhân nhưng luật pháp quy định mọi công dân đều có quyền tham gia vào hoạt động
báo chí.
Các thế lực
chống phá thường vin vào việc Việt Nam không có mô hình báo chí tư nhân mà cố
tình lờ đi rằng, mọi công dân đều được quyền tham gia sáng tạo và xuất bản báo
chí, mọi tầng lớp, tổ chức trong xã hội đều có cơ quan báo chí đại diện của
mình.
Điều 11 Luật Báo chí năm 2016 nêu rõ: Công dân có quyền phát biểu ý kiến
về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với
các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính
trị-xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp và các tổ
chức, cá nhân khác. Điều 13 ghi rõ: “Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in,
truyền dẫn và phát sóng”.
Không chỉ về
phương diện pháp lý mà trong thực tiễn, tự do báo chí ở Việt Nam cũng được biểu
hiện sinh động. Nền báo chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, loại
hình, quy mô, công nghệ làm báo. Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền
thông, tính đến tháng 5-2023, cả nước có 808 cơ quan báo chí (trong đó: 138
báo, 670 tạp chí) và 42.400 người hoạt động trong lĩnh vực báo chí, gấp
khoảng 6 lần so với thập niên 2000.
Ngoài ra,
không thể không kể đến mạng xã hội đã tham gia mạnh mẽ vào môi trường truyền
thông trong khoảng 10 năm trở lại đây. Ở Việt Nam, công dân không bị ngăn cấm
tham gia mạng xã hội. Quyền phát ngôn, tham gia ý kiến, thảo luận về mọi vấn đề
xã hội đã được mở rộng rất nhiều trên các phương tiện truyền thông mới này. Báo
chí cùng với mạng xã hội đã trở thành một diễn đàn lớn, nơi mà mọi người dân
đều có tiếng nói, mọi vấn đề quốc kế dân sinh được trao đổi, thảo luận, đó là
những biểu hiện rất rõ ràng của tự do báo chí, tự do ngôn luận. Báo chí hiện
đại trong những năm gần đây, cùng sự hỗ trợ của công nghệ truyền thông số, đã
tăng cường tính tương tác với công chúng. Trên các báo điện tử đều mở phần bình
luận cho người đọc. Các kênh phát thanh, truyền hình đều có những chương trình
phát sóng trực tiếp, có số điện thoại đường dây nóng để người nghe, người xem
gọi điện tương tác ngay khi chương trình đang diễn ra.
Với những
thiết bị hiện đại, nhà đài có thể di chuyển đến phỏng vấn và phát sóng trực
tiếp ngay tại nhà của các công dân. Mặt khác, các cơ quan báo chí đều thiết lập
những chương trình thu thập chất liệu phản ánh từ các “nhà báo công dân”. Đó là
minh chứng rất rõ ràng về việc báo chí có thể xuất bản ngay mà không qua kiểm
duyệt. Như vậy, cả trên phương diện pháp lý và hoạt động thực tiễn, quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam đều được thể hiện rõ ràng, luôn gắn với quy
định pháp luật, luôn hướng tới mục đích phụng sự nhân dân, góp phần thúc đẩy
tiến bộ xã hội. Tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam không phải là ngôn
luận tự do, báo chí tự do theo ý chí cá nhân, mà là tự do xây dựng vì những mục
tiêu tốt đẹp, vì trách nhiệm chân chính với cộng đồng, vì một thể chế chính
trị-xã hội của dân, do dân, vì dân.
Các thế lực
thù địch dù có tấn công, chỉ trích, chống phá như thế nào cũng không thể thay
đổi bản chất tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam. Thực ra đó chỉ là những
tiếng nói tiêu cực, lạc lõng của những người cố tình đi ngược chiều với sự phát
triển bền vững của đất nước ta, nhân dân ta và của nền báo chí cách mạng đáng
tự hào của chúng ta.
NVE40