QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
T.B
Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều người theo tôn
giáo. Hiện nay, có 5 tôn giáo lớn: Phật giáo; Kitô giáo (Công giáo, Tin Lành); Hồi giáo; Cao
Đài; Hoà Hảo. Số tín
đồ lên tới gần 20 triệu. Có người cùng lúc
tham gia nhiều hành vi tín ngưỡng, tôn giáo. Gần đây các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động phát
triển tổ chức, phát huy ảnh hưởng trong đời sống tinh thần xã hội, thu hút tín
đồ; tăng cường quan hệ với các tổ chức tôn giáo thế giới. Các
cơ sở tôn giáo được tu bổ, xây dựng mới khang trang đẹp đẽ; các lễ hội tôn giáo
diễn ra sôi động ở nhiều nơi. Đại đa số tín đồ chức sắc tôn giáo hoạt động đúng
pháp luật, theo hướng “tốt đời, đẹp đạo”. Tuy nhiên, tình hình tôn giáo vẫn còn những diễn biến phức
tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Các thế lực thù
địch vẫn lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng. Chúng gắn vấn đề “dân chủ”, “nhân
quyền” với cái gọi là “tự do tôn giáo” để chia rẽ tôn giáo, dân tộc; tài trợ,
xúi giục các phần tử xấu trong các tôn giáo truyền đạo trái phép, lôi kéo những
hoạt động trái pháp luật, gây mất ổn định chính trị. Vì vậy, trong đấu tranh phòng chống
địch lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam cần quán triệt và
thực hiện tốt quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Trong đó chú
ý một số nội dung sau đây:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân; đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc.
Quan điểm này thể
hiện sự đổi mới quan trọng của Đảng trong nhận thức về vấn đề tôn giáo từ góc
độ đến thái độ tiếp cận. Trước đây, tôn
giáo thường tiếp cận từ hai góc độ tư tưởng triết học và chính trị với hai định
nghĩa mang tính kinh điển: "tôn giáo là hình thái ý thức xã
hội" và "tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân". Đó là
hướng tiếp cận đúng, nhưng chưa đủ theo quan điểm mới của Đảng ta về vấn đề tôn
giáo. Bởi vì, tôn giáo không chỉ là triết học và không chỉ là vấn đề chính trị
mà tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Với nhận thức đó, Đảng ta không chỉ bó hẹp tôn giáo
trong khuôn khổ của tư tưởng triết học và chính trị mà còn khẳng định rõ thái độ của những người cộng sản Việt
Nam về sự tôn trọng nhu cầu tinh thần, đời sống tâm linh của nhân dân, một nhu
cầu đích thực, chính đáng của quần chúng có đạo, thể hiện sự quan tâm và bảo
đảm cho những lợi ích thiết thân của đồng bào các tôn giáo. Việc tôn trọng, bảo
đảm và thỏa mãn nhu cầu đời sống tín ngưỡng lành mạnh, chính đáng của họ cũng giống
như việc bảo đảm các quyền lợi khác của con người như ăn, ở, mặc, bảo vệ sức
khoẻ, tự do, nhân quyền, dân chủ, vv…
Hai là, ưu tiên phát triển kinh tế, chăm lo nâng cao đời sống vật chất tinh thần của đồng bào các tôn giáo. Đây
cũng là một trong những giải pháp quan trọng, xét đến cùng có ý nghĩa nền tảng
để hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống cộng đồng.
Khi đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao, đồng bào sẽ đoàn kết, tin tưởng
vào Đảng, Nhà nước, thực hiện tốt quyền lợi, nghĩa vụ công dân thì không kẻ thù
nào có thể lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Bởi vậy, phải đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả
các chương trình, dự án ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội miền núi vùng dân
tộc, vùng tôn giáo tạo mọi điều kiện giúp đỡ đồng bào các dân tộc, các tôn giáo
nhanh chóng xoá đói giảm nghèo nâng cao dân trí, sức khoẻ, bảo vệ bản sắc văn
hoá các dân tộc. Khắc phục sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội giữa
các dân tộc, các tôn giáo ; sự kì thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo.
Ba là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn
kết tôn giáo, phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.
Đảng xác
định: “Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau;
đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo.”[1].
Khơi
dậy, động viên tín đồ, chức sắc các tôn giáo phát huy những giá trị tốt đẹp,
mặt tích cực, điểm tương đồng của tôn giáo với chủ nghĩa xã hội; phát huy tinh
thần yêu nước của đồng bào các tôn giáo làm cho họ tự giác đấu tranh chống lại
những luận điệu xuyên tạc âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch
chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của
Đảng tiếp tục khẳng định: "Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời
đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tô
quốc"[2].
Bốn là, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Trên cơ sở nhất quán đường lối tôn trọng tự do tín
ngưỡng, tôn giáo. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Mọi tín đồ có
quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của
pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận hoạt động theo pháp
luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức
sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ
tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật. Việc theo đạo, truyền
đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị
đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo,
người truyền đạo và cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của
pháp luật.
Đây là quan điểm có vị trí đặc biệt
quan trọng phản ánh rõ đời sống sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta ngày
càng được mở rộng cùng với quá trình đổi mới, dân chủ hóa đời sống xã hội. Cùng
với việc khẳng định quyền tự do hoạt động tôn giáo của tín đồ và các tổ chức
tôn giáo hợp pháp, cần nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân chưa được nhà nước thừa
nhận tư cách pháp nhân truyền đạo, nghiêm cấm việc lợi dụng hoạt động tôn giáo
để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, trục lợi cá nhân hay ép buộc
người khác theo đạo. Điều đó không chỉ bảo đảm cho hoạt động tôn giáo trong
khuôn khổ pháp luật, giữ vững tình hình chính trị - xã hội mà còn bảo vệ các
tôn giáo chân chính, chống tà đạo, tà giáo và hiện tượng mê tín dị đoan nhằm
làm lành mạnh hoá môi trường sinh hoạt tôn giáo.
[1]
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị
lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2003, tr.48 - 49.
[2]
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2011, tr.245.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét