Thứ Hai, 12 tháng 11, 2018

SỰ XUYÊN TẠC THÔ BỈ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Trong suốt quá trình chống phá cách mạng bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch luôn đặt trọng tâm và chĩa mũi nhọn vào chống phá Đảng và chế độ XHCN của Việt Nam, bằng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt và hết sức thâm độc. Gần đây, trên một số trang mạng xã hội YouTube, Facebook, Twitter, Blogger cá nhân,… một số phần tử cơ hội chính trị, bất mãn chế độ như: Phạm Phú Khải, Trương Nhân Tuấn, Phạm Quang Tuấn,… đang rêu rao nói xấu Đảng, chúng cho rằng: “Hãy đoạn tuyệt lối mòn”, “Danh chính của ĐCSVN có vấn đề”, “Bắt cóc, tham nhũng, suy nghĩ nhập nhằng”, “Đảng Cộng sản Việt Nam đang là nhóm lợi ích lớn nhất”… Đây là những luận điệu hoàn toàn vu khống, xuyên tạc trắng trợn bản chất, truyền thống, mục đích hoạt động tốt đẹp, đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, nên chúng ta cần kiên quyết đấu tranh, bác bỏ quan điểm trên.
Chúng ta đều biết, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (03/02/1930), do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là tổ chức chặt chẽ nhất, mang bản chất giai cấp công nhân và có tính nhân dân rộng rãi. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, xét về tổ chức, tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc hoạt động, thì Đảng Cộng sản Việt Nam là một chính Đảng có uy tín rất lớn được toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam lắng nghe, tin tưởng và hành động theo; như vậy danh chính của Đảng là rất rõ ràng, càng không thể nói Đảng ta là nhóm lợi ích như các thế lực thù địch rêu rao.
Thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam 88 năm qua của Đảng đã minh chứng rõ điều này, xin nêu mấy nội dung cơ bản sau:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Điều này luôn được Đảng khẳng định, ghi trong Cương lĩnh chính trị, Điều lệ từ khi thành lập đến nay, và được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định. Trên thực tế, Đảng không chỉ kết nạp vào hàng ngũ của mình những người ưu tú trong giai cấp công nhân, mà còn cả những người ưu tú trong các tầng lớp nhân dân lao động, các dân tộc, tôn giáo. Đó là cơ sở xã hội rộng rãi, vững chắc, mà đảng viên là đại diện, có chung lợi ích với các tầng lớp nhân dân, các dân tộc trong xã hội Việt Nam. Vì vậy, lợi ích của Đảng là thống nhất với lợi ích của giai cấp và của cả dân tộc. Nó hoàn toàn khác với các nhóm lợi ích theo cách hiểu thông thường - đại diện của số ít người.
Không chỉ có vậy, quá trình hoạt động, Đảng luôn tuyệt đối trung thành, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên, giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp và dân tộc. Trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, trước yêu cầu bức thiết phải giành cho được độc lập, mang lại ruộng đất cho dân cày, Đảng đã chuyển hướng mục tiêu đấu tranh từ đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ hằng ngày sang mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc. Vì, “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”1. Với đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, giành độc lập, thống nhất nước nhà; nhân dân ta được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bởi đế quốc, thực dân, phong kiến, trở thành người chủ của một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Trong cuộc trường chinh đó, đã có hàng vạn cán bộ, đảng viên, nhiều đồng chí là lãnh đạo xuất sắc bị giam cầm, tù đày, giết hại2, là minh chứng cho sự hy sinh quên mình vì nhân dân, vì đất nước, vì dân tộc của Đảng.
Trước khó khăn của cuộc sống, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã bám sát thực tiễn, không ngừng tìm tòi, sáng tạo, tiến hành công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước từng bị chiến tranh tàn phá nặng nề, đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn, bị bao vây, cấm vận,… trở thành nước có thu nhập trung bình, đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Đặc biệt, trước diễn biến phức tạp về tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông, Đảng và Nhà nước ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước. Đây là sự thật lịch sử, dẫu thiện chí hay không, cũng không ai có thể bác bỏ. Đó chẳng phải là bằng chứng sinh động khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn hành động vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự tiến bộ, phồn vinh của đất nước đó sao?
2. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Quyền lãnh đạo đó được hiến định tại Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đó là tất yếu khách quan, sự thừa nhận và khẳng định của nhân dân về địa vị pháp lý lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; thể hiện uy tín, ảnh hưởng của Đảng trong lòng dân, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện bằng cương lĩnh chính trị, chiến lược, bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Sự lãnh đạo đó còn thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị; phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy; gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, chứ không phải độc quyền nhà nước, đứng trên pháp luật như các thế lực thù địch rêu rao!
3. Với tư cách của một Đảng cách mạng chân chính, đạo đức và văn minh, Đảng Cộng sản Việt Nam không thiên vị, dung túng, bao che cho những sai lầm, khuyết điểm, tiêu cực, tham nhũng của đảng viên, cán bộ. Là một thực thể xã hội, trong quá trình hoạt động, cán bộ, đảng viên của Đảng bên cạnh những ưu điểm, không tránh khỏi những hạn chế, khuyết điểm. Đặc biệt, khi đã có chính quyền, đảng viên nói chung, nhất là những người ở vị trí chủ trì, chủ chốt, có chức, có quyền nói riêng, nếu thiếu tu dưỡng, rèn luyện thì rất dễ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đó là nguy cơ đối với đảng cầm quyền đã được V.I. Lênin cảnh báo từ rất sớm. Song, những đảng viên ấy, sớm muộn cũng sẽ bị loại ra khỏi hàng ngũ. Điều quan trọng là Đảng đã nhận ra khuyết điểm của mình, đề ra biện pháp kiên quyết khắc phục, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Đúng như Hồ Chí Minh đã khẳng định, một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình là một đảng mạnh. Những đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước đều phải xử lý theo Điều lệ Đảng và bình đẳng trước pháp luật, không có “vùng cấm” nào cả. Việc làm này được Đảng tiến hành thường xuyên trong quá trình lãnh đạo cách mạng, thông qua các đợt tự phê bình và phê bình, “chỉnh đốn Đảng”. Vì vậy, không nên quy chụp, lấy hiện tượng, dù là “bộ phận không nhỏ” này để đánh giá, quy kết bản chất của Đảng. Bởi như C.Mác đã nói: nếu mọi hiện tượng đều phản ánh đúng bản chất thì mọi khoa học đều trở lên thừa.
Gần đây nhất, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", từ năm 2012 đến năm 2014, toàn Đảng đã xử lý kỷ luật trên 54.000 đảng viên và xóa tên, cho ra khỏi Đảng hàng nghìn trường hợp, trong đó có nhiều đảng viên phải truy tố trước pháp luật. Cùng với đó, việc xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng được đẩy mạnh; nhiều vụ án nghiêm trọng đã đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật, được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ. Đành rằng, đó là sự mất mát, bài học đau xót đối với Đảng, nhưng là việc phải làm và Đảng ta đã kiên quyết làm một cách nghiêm túc, triệt để. Qua đó, góp phần răn đe, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp. Do đó, Đảng luôn được nhân dân tin tưởng, coi đó là Đảng của mình.
Trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” Đảng ta đã chỉ ra một số tồn tại hạn chế của cán bộ, đảng viên như sau:
Công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa đáp ứng yêu cầu.
Nội dung sinh hoạt đảng ở nhiều nơi còn đơn điệu, hình thức, hiệu quả chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu. Công tác tổ chức, cán bộ và quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu kém.
Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái.
Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao.
Việc phân định thẩm quyền, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của người đứng đầu với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước.
Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty.
Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. 
Từ phân tích trên cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy độc lập dân tộc, sự phồn vinh của đất nước, hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu hành động, ngoài ra Đảng không có lợi ích nào khác. Vì vậy, một quan điểm cho rằng: “Vai trò của Đảng đã hết- hãy đoạn tuyệt lối mòn”, “Danh chính của ĐCSVN có vấn đề”,“Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chỉ là nhóm lợi ích” là hoàn toàn phản động, bị đặt, không có cơ sở lý luận và thực tiễn. Thực chất, đây là sự xuyên tạc trắng trợn nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mỗi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân cần nêu cao tính cảnh giác và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ./.


0 nhận xét:

Đăng nhận xét