Thứ Ba, 6 tháng 6, 2023

THƯỜNG XUYÊN “TỰ SOI”, “TỰ SỬA”, NÊU CAO DANH DỰ, LÒNG TỰ TRỌNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN


 

          Trong tiến trình cách mạng, Đảng ta đặc biệt quan tâm xây dựng, bổ sung, phát triển, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn, trong đó có yêu cầu cán bộ, đảng viên thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, nêu cao danh dự, lòng tự trọng.

          Thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”

          Từ Đại hội IX đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định các chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên đã được xây dựng và thực hiện trong các giai đoạn trước đó, đồng thời bổ sung, hoàn thiện những chuẩn mực mới, đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng.

          Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) yêu cầu: “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc để làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hàng ngày.

          Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên”(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr.237, 248.); “Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr.237, 248).

          Sau Đại hội XIII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong đó đặc biệt là:

          Kết luận số 01-KL/TW ngày 18.5.2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, khẳng định: “Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, mẫu mực về nhân cách, lối sống; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung thực, giản dị, thẳng thắn, chân thành; không tham nhũng, không bị chi phối bởi lợi ích nhóm, không để người nhà, người thân lợi dụng vị trí công tác để vụ lợi. Nghiêm túc tự phê bình và phê bình, thấy đúng phải cương quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh”.

          Kết luận số 21-KL/TW ngày 25.10.2021 của Ban Chấp hành Trung ương ban hành, về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.

          Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25.10.2021 của Ban Chấp hành Trung ương ban hành về những điều đảng viên không được làm.

          Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16.6.2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới.

          Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, nhấn mạnh tầm quan trọng và đặt lên hàng đầu vấn đề “Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.183.). Đặc biệt, Đảng đã đưa nội dung “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

          Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hàng ngày” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.184) là một giải pháp mới để xây dựng Đảng về đạo đức.

          Đại hội XIII của Đảng đã đề cập và nhấn mạnh hầu hết tất cả các mặt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về đạo đức, với 6 giải pháp trọng tâm là: 1) Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; 2) Thực hiện nghiêm quy định nêu gương; 3) Bổ sung, hoàn thiện các giá trị và xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng; 4) Giáo dục đạo đức cách mạng; 5) Đấu tranh chống quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức; 6) Khen thưởng, kỉ luật cán bộ, đảng viên.

          Các chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên được Đảng ta nhấn mạnh là: thật sự tiên phong, gương mẫu; kiên định, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng; hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, suốt đời phấn đấu hi sinh vì mục tiêu cách mạng; gắn bó mật thiết với nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định… của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; có phẩm chất, đạo đức cách mạng, có nhân cách và lối sống mẫu mực, lành mạnh, trong sáng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, bản lĩnh, kiên định, đoàn kết, kỉ cương, trung thực, trách nhiệm; thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”, nêu cao danh dự, lòng tự trọng; có năng lực hoàn thành nhiệm vụ, năng động, sáng tạo, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và mọi biểu hiện, hành vi tiêu cực./.

MĐ11

 

THÁNG 4 “THÁNG QUỐC HẬN” CỦA BÈ LŨ BÁN NƯỚC

 

Tháng 4, đối với tuyệt đại đa số người dân Việt Nam, tháng 4 là một tháng với nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước. Ngày mà 48 năm trước đây, non sông Việt Nam quy về một mối, đất nước hoàn toàn hòa bình, thống nhất. Ấy vậy mà, trong mắt một số người, đặc biệt là bè lũ bán nước, đây là tháng chúng coi là "quốc hận". Bởi vì cũng thời gian này 48 năm về trước, chúng đã dẫm đạp lên nhau, kể cả người thân và bạn bè đồng đội để được "lên trực thăng" qua đất Mỹ mà chúng ta hiện nay vẫn gọi chúng là những kẻ "đu càng" năm 1975.

48 năm sau, một số kẻ vẫn "cố tình" không tỉnh ngộ, vẫn dã tâm âm mưu gây mất hòa bình, ổn định ở Việt Nam bằng các hoạt động khủng bố, phá hoại. Bằng chứng là suốt trong những năm tháng ở hải ngoại, chúng lập ra nhiều các tổ chức khủng bố, phản động mà điển hình là tổ chức khủng bố "Việt Tân". Thông qua các tổ chức khủng bố, phản động này, chúng tăng cường việc xuyên tạc, tuyên truyền chống phá chế độ; kích động biểu tình, bạo loạn trong nước với mục tiêu "phục hồi chế độ mẹ đẻ của chúng là chế độ Việt Nam cộng hòa". Và hơn lúc nào khác trong năm, tháng 4 luôn là tháng để chúng tiến hành mạnh mẽ các hoạt động chống phá. Trước đây, bằng các hoạt động liều lĩnh và khủng bố, các tổ chức khủng bố này thậm chí còn đưa người về nước nhập cài bom, gây nổ tiến hành các hoạt động khủng bố gây bất ổn an ninh, trật tự.

Hiện nay, khi chính quyền bảo trợ của chúng đang tiến hành cuộc chiến chống khủng bố trên phạm vi toàn cầu thì chúng không còn dám liều lĩnh như vậy. Thay vào đó, chúng tăng cường tiến hành hỗ trợ các tổ chức, cá nhân phản động trong nước như Nguyễn Văn Đài, Phạm Đoan Trang, Trần Huỳnh Duy Thức… tiến hành chống đối. Hoặc chúng thông qua đám linh mục phản động như Đặng Hữu Nam, Nguyễn Đình Thục… để kích động một bộ phận tín đồ thiên chúa chống đối. Cộng với đó, chúng kêu gọi các thành viên ở hải ngoại tổ chức các buổi "lễ" kỉ niệm "chống cộng" bằng cách cổ lỗ đưa các "lĩnh chiến Việt Nam cộng hòa" cũ ra để

dương oai.

Ấy vậy mà kết quả thì thật là thảm hại, 48 năm qua, 48 mùa "quốc hận" ấy vậy mà bè lũ bán nước lại càng thất bại trong âm mưu trở về của mình. Liên tiếp các âm mưu, kế hoạch bị phá sản, liên tiếp các "chân rết" trong nước bị bắt giữ mà tiêu biểu là các thành viên của "Hội anh em dân chủ" sẽ được xét xử trong tháng 4 này. Và hơn thế, trong mắt người dân Việt Nam, chúng không khác gì những "con chó" đi ăn "c**" nơi đất khách quê người để về cắn lại đất nước!

LĐ11

 

 

 

 

SỰ MÙ QUÁNG CỦA NHỮNG KẺ “CỐ ĐẤM ĂN XÔI”


Đến hẹn lại lên, mỗi năm, cứ đến dịp kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4), các đối tượng phản động, các thế lực thù địch lại ra rả xuyên tạc, bôi lem để phủ nhận thành quả cuộc kháng chiến trường kỳ của quân và dân cả nước.

Hầu hết các đối tượng đó là những kẻ phản động lưu vong với ý thức hệ mù quáng, lạc hậu, không chịu thừa nhận thực tiễn phát triển của lịch sử đất nước Việt Nam.

Cứ vào tháng Tư, các trang mạng xã hội, các kênh youtube như Việt Tân, Nhật ký yêu nước, Vietline.TV, VOA, RFA, Tin Tức Hoa Kỳ, Hoa Kỳ Channel..., đồng loạt đăng tải các bài viết, video, hình ảnh xuyên tạc về sự kiện 30/4/1975. Các phần tử phản động thường xuyên tạo ra các diễn đàn ảo để livestream nhằm bôi xấu chế độ, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và thành tựu đổi mới của đất nước. Chúng thường xuyên rêu rao rằng, 30/4 là “ngày quốc hận”, “Tháng Tư là tháng vo gạo bằng nước mắt”, “Tháng Tư đen”… Các phần tử phản động lưu vong còn tập hợp một số tàn dư của chế độ Việt Nam Cộng hòa để bình luận, cho rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta “thực chất chỉ là nội chiến, là chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh ý thức hệ nên không có gì đáng tự hào”…

Đó là những luận điệu hoàn toàn sai trái, sáo rỗng với mục đích chống phá cách mạng Việt Nam, khơi gợi “chủ nghĩa xét lại” để phủ nhận sự hy sinh xương máu của lớp lớp đồng bào, chiến sĩ dân tộc ta. Tuy nhiên, những luận điệu đó đã bị chính những giá trị lịch sử, ý nghĩa trọng đại của Chiến thắng 30/4/1975 và thành tựu qua hơn 35 năm đổi mới của đất nước ta phủ nhận, phản biện.

Hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ đã thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, tinh thần chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo của Quân đội và Nhân dân cả nước. Hàng triệu người dân Việt Nam cùng chung ý chí “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”,… Cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta là cuộc kháng chiến chính nghĩa, được cả thế giới và ngay cả người Mỹ ủng hộ. Chiến thắng 30/4/1975 là chiến thắng của sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; đường lối kháng chiến tài ba, quân và dân ta đã tạo nên sự kiện “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Và, từ đó, “Bắc - Nam sum họp, Xuân nào vui hơn”…

Hòa bình, thống nhất, Nhân dân Việt Nam không ngủ quên trên chiến thắng mà tiếp tục đồng sức, đồng lòng, chung một ý chí để phát triển kinh tế - xã hội, thể hiện ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã gặt hái nhiều thành tựu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, kinh tế phát triển mạnh, quốc phòng, an ninh được giữ vững, củng cố và tăng cường. Nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt hơn 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Nước ta bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế sâu rộng với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp công việc nội bộ, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".

Việt Nam cũng đã tích cực, chủ động hội nhập mọi mặt đời sống xã hội quốc tế, là thành viên tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, nhất là có uy tín, vị thế cao trong hoạt động của Liên hợp quốc (gia nhập ngày 20/9/1977), là quốc gia điển hình, được nhân dân thế giới yêu mến khi tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; thành viên trách nhiệm, tích cực của tổ chức ASEAN (gia nhập ngày 28/7/1995), APEC (gia nhập ngày 14/11/1998), WTO, CICA, Việt Nam là thành viên Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023-2025,…

Đặc biệt, công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mà Việt Nam đang triển khai quyết liệt đã nhận được lòng tin và sự tín nhiệm cao của cộng đồng quốc tế. Thực tế, các nhà đầu tư tiếp tục coi Việt Nam là điểm đến đầu tư lâu dài. Hàng tỷ USD rót vào Việt Nam là minh chứng cho thấy: Niềm tin càng trở nên mạnh mẽ. Tình trạng sách nhiễu, vòi vĩnh gây phiền hà cho doanh nghiệp đang giảm mạnh. Đây cũng là một trong những yếu tố khiến môi trường đầu tư tại Việt Nam ngày càng hấp dẫn hơn để thu hút đầu tư nước ngoài và là một trong những động lực chính cho tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn đầy khó khăn này. Chống tham nhũng không hề khiến cho guồng máy kinh tế chậm lại mà thực sự đang tạo đà cho phát triển.

Những thành quả đổi mới rõ ràng như vậy đã khiến cho rất nhiều người Việt Nam ở nước ngoài cảm thấy hân hoan, tin tưởng. Nhiều doanh nhân, nhà khoa học gốc Việt đã về nước để đầu tư phát triển quê hương. Thậm chí, nhiều người ở hệ tư tưởng cũ cũng đã nhận ra giá trị của hòa bình, thống nhất. Họ khuyến khích con, cháu của họ trở về học tập và sinh sống ở đất mẹ Việt Nam; nhiều người chỉ mong muốn được trở về Tổ quốc trước khi qua đời…

Mỗi độ tháng Tư, một số tàn dư của chính quyền Việt Nam Cộng hòa trước kia (hiện sống lưu vong tại Mỹ) lại giăng cờ đèn kèn trống diễu binh, diễu hành, phô trương lực lượng trên một tuyến phố nhỏ. Những năm gần đây, “đội quân” này chỉ còn vỏn vẹn một hàng ngang. Tất cả đều đã ở cái tuổi “thất thập cổ lai hi”, chẳng còn người trẻ nào tham gia. Chương trình livestream trên youtube cũng không nhiều người xem, chỉ vài ông, bà tham gia rồi “tự sướng” bằng vài cái like dạo và bình luận phiếm. Có lẽ họ cũng đã nhận ra ngày 30/4/1975 là sự kiện lịch sử tất yếu và là lựa chọn đúng đắn của dân tộc Việt Nam. Có điều, giờ đây, sống bám ở đất khách quê người, họ đành phải “cố đấm ăn xôi”...

TB11

PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỆU: VIỆT NAM MUỐN THỊNH VƯỢNG THÌ PHẢI TỪ BỎ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ CNXH


Các luận điệu chống phá cho rằng: Việt Nam muốn giàu có, thịnh vượng thì phải dũng cảm từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa(!). Đáng tiếc, những quan điểm, luận điệu như vậy vẫn được một số người, trong đó có những trí thức có học hàm học vị ở trong nước cổ súy.

Với mưu đồ phá hoại, từ lâu các thế lực thù địch, phản động đã sử dụng nhiều chiêu trò chống phá Đảng, Nhà nước; xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng và những thành quả cách mạng. Trong số đó, có những quan điểm cho rằng, chủ nghĩa xã hội (CNXH) là nghèo khổ vì “chủ nghĩa Mác - Lênin dị ứng với sự giàu có”; rằng Việt Nam “không chịu phát triển”, “không thể phát triển” bởi Việt Nam “lạc nhịp” với thế giới, “sa lầy trong tư duy” về chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH. Theo đó, họ rêu rao, Việt Nam muốn giàu có, thịnh vượng thì phải dũng cảm từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN)(!). Đáng tiếc, những quan điểm, luận điệu như vậy vẫn được một số người, trong đó có những trí thức có học hàm, học vị ở trong nước cổ súy.

Thực ra, cả lý luận và thực tiễn, cả logic và lịch sử trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều bác bỏ những quan điểm nói trên.

Thứ nhất, về mặt tư tưởng, lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin không dị ứng với giàu có, thịnh vượng như một số người xuyên tạc. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết rõ: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”. Chủ nghĩa Mác - Lênin tuyên bố công khai mục đích của phong trào XHCN hiện đại là xây dựng xã hội mới giàu có, thịnh vượng cho đa số nhân dân chứ không phải một xã hội trong đó “sự áp bức và lao động kiệt sức đối với đa số, sự giàu có và hạnh phúc ấm no đối với một số ít người”. Theo Mác, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản (xã hội XHCN) không tránh khỏi “người này giàu hơn người kia”…

V.I.Lênin viết: “Xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ mới”.Từ thực tiễn cách mạng Nga, V.I.Lênin cho rằng, giải pháp chiến lược để từng bước tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản (CNTB) chính là thực hiện Chính sách kinh tế mới. Đây là chính sách kinh tế nhiều thành phần - đặc trưng cho toàn bộ thời kỳ quá độ lên CNXH. Theo đó, người cộng sản cũng phải học cách buôn bán, học cách tổ chức lãnh đạo, quản lý, khai thác, phát huy mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế, xã hội để phát triển sản xuất, xây dựng nền sản xuất lớn công nghiệp hiện đại. Người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình “bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”; phải “dùng cả hai tay mà hứng lấy những cái tốt của nước ngoài”; phải “đưa chủ nghĩa xã hội vào cuộc sống hằng ngày”...

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh nêu rõ: “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”; “Xã hội chủ nghĩa là ai cũng được làm việc, được ăn no mặc ấm, được học hành, người già yếu thì được giúp đỡ, các cháu bé thì được săn sóc. Nói tóm lại, xã hội chủ nghĩa là sung sướng ấm no. Điều mong muốn cuối cùng trong bản Di chúc lịch sử, Người cũng viết: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh...”…

Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh quan niệm CNXH là xã hội giàu có về mọi phương diện và giàu có cho số đông, hơn hẳn CNTB và là sự thay thế hợp quy luật đối với CNTB. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chủ trương xóa áp bức, bóc lột, lạc hậu, bất công, nghèo khổ chứ không hề dị ứng với giàu có, thịnh vượng, không hề chủ trương “xóa giàu”như một số người lầm tưởng, suy diễn, xuyên tạc.

Thứ hai, về mặt thực tiễn, Liên Xô và nhiều nước XHCN trước đây đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và chứng minh rằng, giàu có, thịnh vượng cho đất nước và đông đảo nhân dân không chỉ là mơ ước, lý tưởng, khát vọng cháy bỏng; không chỉ là chủ trương, chính sách của các Đảng Cộng sản, của các Nhà nước XHCN mà đã từng là hiện thực lịch sử sinh động ở một số quốc gia.

Sau cách mạng Tháng Mười năm 1917, từ đống đổ nát bởi chiến tranh, với một nền kinh tế kiệt quệ, đầy tàn tích nông nô, nước Nga Xô viết (từ 1922 là Liên Xô) đã nhanh chóng vươn lên thành cường quốc. Đến năm 1932, Liên Xô trở thành nước công nghiệp, trong đó, sản phẩm công nghiệp chiếm 70,7% tổng sản phẩm nền kinh tế quốc dân. Trong 5 năm (1927-1932), thu nhập quốc dân tăng 85%; chi phí của Nhà nước về bảo hiểm xã hội và y tế tăng 4 lần; ngày làm việc của công nhân giảm xuống 7h/ngày; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, 98% trẻ em từ 8-11 tuổi đã được cắp sách đến trường; nạn mù chữ đã được thanh toán; đại đa số người lớn biết đọc, biết viết. Sau chiến tranh thế giới II, một số nước XHCN ra đời và cũng có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng.

Đến năm 1970, chỉ tính riêng các nước XHCN ở châu Âu đã chiếm 40% sản lượng công nghiệp thế giới, 1/3 giá trị xuất khẩu toàn thế giới; 4 nước XHCN được xếp trong số 20 nước phát triển của thế giới là Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Cộng hòa nhân dân Ba Lan, Cộng hòa XHCN Tiệp Khắc; Liên Xô trở thành một trong hai siêu cường của thế giới (Xô - Mỹ). Liên Xô và các nước XHCN không chỉ có tốc độ phát triển kinh tế, công nghiệp nhanh, không chỉ đạt nhiều thành tựu về khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật mà còn thực thi hệ thống chính sách xã hội tất cả vì con người, nhất là chính sách về lao động, việc làm cho mọi người; chính sách giáo dục, y tế không mất tiền; chính sách ưu tiên đối với trẻ em, phụ nữ, người già và dân tộc thiểu số... Những ưu việt này không chỉ đem lại sự thụ hưởng hạnh phúc cho nhân dân các nước XHCN mà còn là mục tiêu hấp dẫn, vẫy gọi đấu tranh đối với công nhân, lao động trên thế giới. Trước áp lực đấu tranh của người lao động, các chính đảng và nhà nước tư sản buộc phải điều chỉnh chủ trương, chính sách kinh tế xã hội theo hướng coi trọng hơn các phúc lợi xã hội…

Cần nói thêm rằng, Liên Xô và các nước XHCN đi lên từ điểm xuất phát thấp, xây dựng CNXH trong sự bao vây, chống phá điên cuồng của thế giới tư bản nhưng nhờ vào trí tuệ, ý chí, sự nỗ lực sáng tạo của đông đảo công nhân lao động trong tư cách, vị thế, niềm tin của những người làm chủ xã hội mà có được sự phát triển nhanh chóng và đạt được những thành quả vĩ đại. Cho dù, vì nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do những người lãnh đạo cao nhất trong bộ máy đảng, nhà nước XHCN xa rời, thậm chí từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, phản bội CNXH khiến từ cuối thập niên 80 đầu 90 của thế kỷ XX, Liên Xô tan rã, chế độ XHCN ở Đông Âu thất bại thì cũng không thể phủ nhận sự thật lịch sử là chính chủ nghĩa Mác-Lênin, CNXH, chứ không phải CNTB đã từng đưa một số quốc gia dân tộc vượt qua lạc hậu, vươn lên phát triển, giàu mạnh; đưa Liên Xô trở thành một trong hai siêu cường của thế giới. Qua 30 năm, kể từ khi Liên Xô tan rã, đến nay vẫn chưa thấy khả năng nước Nga và các quốc gia, dân tộc tư bản trong không gian Liên Xô cũ tìm lại, phục hưng được vị trí siêu cường thế giới như thời Liên Xô. Một số nước trong không gian Liên Xô cũ đã và đang rơi vào cảnh trì trệ, bất ổn, xung đột...

Trong khi đó, cũng lâm vào trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội, cũng đi vào cải cách, mở cửa, đổi mới như Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, nhưng một số nước khác, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam lại thành công. Một trong những bí quyết đem lại thành công là kiên định mục tiêu, kiên trì con đường XHCN, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Thứ ba, trong tư duy, nhận thức của một số người, ta - CNXH là nghèo nàn, lạc hậu, còn tư bản, nước ngoài là văn minh, giàu có. Sự thật không phải như vậy. Nước ngoài là nước khác, không phải nước ta. Nước ngoài cũng có nước tư bản, có nước XHCN, có nước giàu, nước nghèo. Trong số gần 200 quốc gia, vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, tuyệt đại đa số đang theo chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, không phải tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ theo chế độ TBCN đều phát triển, giàu có, thịnh vượng. Trong hơn 190 quốc gia, vùng lãnh thổ theo chế độ TBCN thì đa số là các nước chưa phát triển, đang phát triển, nghèo, kém phát triển và không ít nước có bất ổn về chính trị xã hội. Số liệu thống kê, tổng hợp năm 2018 cho thấy, 10 nước nghèo đói nhất thế giới đều là những nước theo chế độ tư bản ở châu Phi và 50 quốc gia nghèo nhất thế giới cũng đều là các nước theo chế độ tư bản.

Một số nước tư bản được xem là giàu có, văn minh bậc nhất thế giới thì chính họ đồng thời cũng là những quốc gia đã và đang tiếp tục gây ra cho nhân loại rất nhiều tai họa. Hơn nữa, trong chính những nước này, sự giàu có không phải cho số đông mà chỉ dành cho số ít và sự phân hóa giàu nghèo là rất khủng khiếp. Có khu vực, 1% người sở hữu 99% tài sản và 99% người chỉ sở hữu 1% tài sản. Mười năm trước, sự phân hóa ấy bùng phát thành phong trào “Chiếm lấy phố Wall” ở Mỹ và lan ra nhiều nước khác. Tại khu vực Mỹ la tinh, nơi nhiều nước từng là “sân sau” của CNTB, trong vài thập kỷ gần đây đã liên tục trỗi dậy, tẩy chay CNTBvà bước đầu tìm kiếm, thử nghiệm con đường, mô hình phát triển mới -con đường, mô hình “CNXH thế kỷ XXI”.

Còn ở một số nước tư bản được xem là giàu có và văn minh khác, nhất là các nước Bắc Âu, với vai trò cầm quyền, chi phối của các đảng xã hội dân chủ thì ở đó, không chỉ có các nhân tố tư bản mà còn có các nhân tố có tính chất XHCN mới làm nên giá trị phát triển của những nước này. Ngay từ năm 1847, trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen viết, những người XHCN dân chủ “đi theo cùng con đường với những người cộng sản”, họ muốn thực hiện một phần những biện pháp cách mạng, “nhưng không coi đó là những biện pháp quá độ dẫn đến chủ nghĩa cộng sản, mà coi đó là những biện pháp đầy đủ để xóa bỏ cảnh nghèo nàn và những tai họa của xã hội hiện nay”. Tuy nhiên, thực tế các nước Bắc Âu cũng đang nảy sinh những giới hạn, mâu thuẫn. Việc đánh thuế cao để có phúc lợi cao khiến các nhà đầu tư giảm động lực, nhiều người di chuyển tư bản sang nước có thuế thu nhập thấp hơn để tăng thêm sự giàu có cho riêng họ. Ngược lại, phúc lợi xã hội cao cũng làm cho người lao động trở nên ỷ lại, trông chờ, dựa dẫm vào nhà nước...

Do đó, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta lựa chọn quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là hoàn toàn đúng đắn. Tất nhiên, trong khi chọn lọc kế thừa những thành tựu, giá trị văn minh, tiến bộ mà nhân loại đạt được dưới CNTB, chúng ta phải dứt khoát bỏ qua những thói hư tật xấu, bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột TBCNvà phải tỉnh táo, phê phán, bác bỏ những nhận thức ảo tưởng, mơ hồ, những luận điệu ca ngợi một chiều CNTB.

Thứ tư, cần nhắc lại rằng, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nước Việt Nam không còn tên trên bản đồ thế giới. Đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, đô hộ, chia cắt, nhân dân lầm than, đói nghèo, cực khổ. Ngay từ đầu, các tầng lớp nhân dân Việt Nam yêu nước, yêu hòa bình đã đứng dậy chống thực dân Pháp xâm lược dưới những ngọn cờ khác nhau, trong đó có cả ngọn cờ dân chủ tư sản. Tuy nhiên, tất cả đều dẫn đến kết cục thất bại, bế tắc. Cuối cùng, lối thoát để cứu nước, cứu dân được tìm thấy bởi Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Lịch sử đặt ra yêu cầu; lịch sử tạo ra điều kiện, tiền đề và biện pháp, con đường và lực lượng để tổ chức, lãnh đạo giải quyết những yêu cầu đó. Lịch sử đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam với con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, con đường cách mạng vô sản theo tấm gương cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, con đường cách mạng được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin - học thuyết “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN, tuy mỗi thời kỳ, giai đoạn có những chính sách, biện pháp khác nhau (trong đó không tránh khỏi có cả những sai lầm, khuyết điểm) nhưng điểm nhất quán là Đảng, Nhà nước ta luôn chủ trương xóa đói nghèo, lạc hậu, áp bức, bóc lột, bất công và hướng tới xây dựng nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.

Trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc xác định “dân giàu”, “nước mạnh” là những mục tiêu hàng đầu trong hệ mục tiêu của CNXH ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, giải pháp đúng đắn và hệ thống chính sách, pháp luật phù hợp để từng bước thực hiện “dân giàu”, “nước mạnh”… Đó là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, “phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội nhưng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội...”.

Theo tinh thần đó, trong hơn 35 năm đổi mới, với sự nỗ lực của các thành phần kinh tế, xã hội, sự đồng sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, “đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Công tác xoá đói, giảm nghèo đạt kết quả nổi bật được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá cao... Việt Nam là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công và là 1 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Đây là điều kiện, tiền đề, là động lực, niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta xác định yêu cầu, nhiệm vụ cao hơn, với ý chí, khát vọng quyết tâm mạnh mẽ hơn để thực hiện các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo lộ trình đến năm 2025, năm 2030 và năm 2045.

Những thành quả cách mạng và triển vọng tốt đẹp của đất nước luôn gắn liền với sự kiên định mục tiêu, con đường độc lập dân tộc và CNXH, sự kiên định và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu của đất nước và xu thế thời đại. Thực tế lịch sử đó hoàn toàn bác bỏ nhận thức cho rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin, CNXH cản trở, kìm hãm sự phát triển của đất nước.

Thứ năm, hiện nay, đúng là nước ta mới ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển để trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp. Nước ta vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực trạng đó do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan. Từ góc độ của chủ đề bài viết, có thể nêu một số nguyên nhân như:

1. Thực hiện quá độ lên CNXH từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu, lực lượng sản xuất rất thấp.

Trong khi ở nhiều nước phát triển trên thế giới, giai cấp tư sản dân tộc là người tổ chức, lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước và giải phóng dân tộc thì ở nước ta, giai cấp tư sản dân tộc ra đời muộn, bị thực dân, đế quốc chèn ép, mặc dù cũng rất yêu nước, anh dũng nhưng nhỏ yếu về tiềm lực kinh tế, chính trị… nên tư sản dân tộc không đảm đương được những nhiệm vụ lịch sử nặng nề ấy. Và sự vận động của lịch sử dân tộc đã tạo ra điều kiện, tiền đề để giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Việt Nam gánh vác sứ mệnh lãnh đạo, tổ chức thực thi nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước… Như vậy, giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Việt Nam không những không được thừa kế di sản công nghiệp hiện đại (các cơ sở công nghiệp do thực dân, đế quốc để lại chủ yếu là trình độ lạc hậu và bị phá hủy nhiều) mà còn phải tự mình lãnh đạo, tổ chức thực thi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề, dai dẳng.

Sau năm 1975, cả nước thống nhất quá độ lên CNXH, nhưng tiếp đó đất nước lại phải tiếp tục gồng mình, dốc sức, đương đầu với hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu biên giới mà độ ác liệt, tàn khốc và hậu quả của nó cũng không thua kém gì so với hai cuộc kháng chiến trường kỳ trước đó. Do đó, về cơ bản, thời gian chúng ta có hòa bình để phát triển cũng chưa đầy 40 năm. Theo dự tính, phải hơn 100 năm nữa chúng ta mới có thể rà phá, xử lý hết bom mìn sót lại; hàng triệu người tàn tật, nạn nhân chiến tranh; những vết thương nhức nhối chia cắt, ly tán… về tình cảm, chính trị… vốn đã không dễ xoa dịu, hàn gắn lại thường bị các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc, kích động, chống phá… Sau khi kết thúc chiến tranh, đất nước ta lại tiếp tục phải đương đầu với chính sách bao vây, cấm vận rất phản động và vô nhân đạo kéo dài của các thế lực tư bản, đế quốc và hiện nay các thế lực thù địch, phản động vẫn thường xuyên sử dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn để chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi mới, phát triển theo định hướng XHCN của nhân dân ta…

3. Những điểm yếu tâm lý tiểu nôngcùng với tàn dư của chế độ thực dân, phong kiến, đế quốc kết hợp với mặt trái của kinh tế thị trường gây ra những ảnh hưởng, tác động sâu sắc đến tâm lý, nhận thức, hành vi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đạo đức, thói quen, lối sống của con người hiện tại, kể cả với đội ngũ doanh nhân và cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong đó có những biểu hiện của tư duy cào bằng, xem nhẹ kinh doanh buôn bán, “phép vua thua lệ làng”, “một người làm quan cả họ được nhờ”, quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm, làm ăn nhỏ lẻ, chụp giật, thiếu tầm nhìn xa, vừa ỷ lại, trông chờ vào nhà nước và xã hội…

4. Làm giàu để có cuộc sống vật chất sung túc và tinh thần phong phú là nhu cầu, ước vọng của toàn nhân loại nhưng ước vọng đó luôn bị quy định, giới hạn bởi các điều kiện lịch sử xã hội. Thực tế cho thấy, từ góc độ cá nhân cũng như quốc gia, dân tộc, quá trình hiện thực hóa khát vọng chính đáng ấy, thất bại vẫn dễ hơn và nhiều hơn thành công. Từng cá nhân làm giàu đã rất khó, làm giàu cho nhiều người, cho hàng trăm triệu người thì lại vạn lần khó khăn hơn, nhất là từ nền nông nghiệp lạc hậu, từ chiến tranh, đổ nát đi lên trong sự bao vây, chống phá của các thế lực phản động, thù địch…

Về phía chủ quan, trong quá trình lãnh đạo cách mạng XHCN, Đảng ta cũng đã không tránh khỏi có những sai lầm, khuyết điểm, nhất là khoảng thời gian 10 năm đầu cả nước thống nhất quá độ lên CNXH, như có biểu hiện duy ý chí, nóng vội trong cải tạo XHCN, nhấn mạnh tính chất XHCN của quan hệ sản xuất trong khi trình độ lực lượng sản xuất còn đa dạng và cơ bản là thấp; nhấn mạnh quá mức việc phát triển công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp… Thực ra, những sai lầm, khuyết điểm này là biểu hiện của sự nhận thức phiến diện, không đầy đủ, thiếu sâu sắc về bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng đã nhận ra điều đó và “nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên”(23). Thành quả to lớn có ý nghĩa lịch sử của hơn 35 năm đổi mới đất nước là minh chứng sống động khẳng định trí tuệ, bản lĩnh và trách nhiệm của Đảng; khẳng định vai trò của việc kiên định, nắm vững và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để Đảng tiếp tục sứ mệnh lãnh đạo nhân dân vững bước trên con đường XHCN.

Từ những lý giải, phân tích trên đây cho thấy, các quan điểm cho rằng: CNXH là nghèo khổ, chủ nghĩa Mác-Lênin “dị ứng với sự giàu có”; và Việt Nam muốn giàu có, thịnh vượng thì phải dũng cảm từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ con đường XHCN...(!) là những quan điểm sai trái cả về lý luận và thực tiễn. Do đó, cần khẳng định rằng, muốn đất nước giàu có, thịnh vượng, không những phải “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(24); không những phải khơi dậy, phát huy mạnh mẽ các nguồn lực, trí tuệ, sự thông minh, sáng tạo, ý chí, khát vọng của con người Việt Nam để chiến thắng đói nghèo, lạc hậu, làm giàu cho bản thân, gia đình và góp phần xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; mà đồng thời, còn phải chủ động đấu tranh, uốn nắn, phê phán, bác bỏ những nhận thức lệch lạc, sai trái bởi nó cũng là một trong những lực cản vô hình nguy hiểm không thể xem thường trên con đường đi tới giàu có, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam.

VK11

 

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU PHỦ NHẬN CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC


Tham nhũng là vấn nạn của mọi quốc gia và không thể một sơm một chiều có thể ngăn chặn , giải quyết triệt để. Với Việt Nam, giữa lúc quyết tâm chính trị, tinh thần đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta đang lên cao và đạt được nhiều kết quả tích cực, thì những phần tử bất mãn, cơ hội về chính trị lại lợi dụng vấn đề này để chống phá. Trên trang “doithoaionline”, Phạm Đình Bá đã đăng bài viết xuyên tạc rằng: “đảng viên thường được bảo vệ bằng nhiều cách, muốn truy tố người là đảng viên thì phải hỏi ý kiến hay xin phép đảng” và “thực chất của chống tham nhũng là định hình của một nhóm quyền lực…”.

Mới đây, một tờ báo mạng có địa chỉ ở nước ngoài đăng bài viết “Thuốc đặc trị chữa tham nhũng: Thay đổi thể chế”. Bài viết có nội dung lật lọng, đả kích, cho rằng: Việt Nam từ nhiều năm qua đề ra quyết tâm chống tham nhũng nhưng vẫn có hàng trăm cán bộ cấp cao bị kỷ luật do rơi vào tham nhũng, tiêu cực. Liệu có diệt được tham nhũng trong thể chế hiện hành hay không? Rồi tác giả bài viết “hiến kế”, ở Việt Nam muốn chống tham nhũng thì phải thay đổi hoàn toàn cơ chế hiện tại; mà trực tiếp là phải thực hiện đa đảng lãnh đạo.

Với ý đồ tương tự, nhiều bài viết đăng trên báo mạng nước ngoài đặt điều, ở Việt Nam nên có sự cạnh tranh lãnh đạo giữa các đảng phái mới có thể phát hiện được “ung nhọt” của nhau; giúp công tác PCTNTC chuyển biến thực chất. Cùng với đó, chúng còn vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam đang ở thế “lưỡng nan đối nghịch” với hàm ý chống tham nhũng nhưng ngại thay đổi thể chế chính trị,... Chúng còn chủ ý tung lên mạng xã hội nhiều bài viết, clip có nội dung bôi nhọ, phủ nhận nỗ lực và kết quả đấu tranh PCTNTC ở Việt Nam trong thời gian qua; chủ ý rêu rao: Đảng, Nhà nước Việt Nam đã và đang ra sức phát động PCTNTC nhưng hoàn toàn không thành công; thậm chí, vấn nạn này ngày càng gia tăng rộng khắp. Bởi “bới” chỗ nào cũng ra tham nhũng, sờ đến đâu thì phát hiện sai phạm, buộc phải kỷ luật cán bộ đến đấy; rồi quy chụp hiện tượng thành bản chất, cho rằng chế độ một Đảng lãnh đạo – chế độ xã hội chủ nghĩa là cha đẻ của tham nhũng.

Đây là luận điệu xuyên tạc, phủ nhận quyết tâm, kết quả phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta, gây hoài nghi trong nhân dân vào các cấp lãnh đạo, hệ thống chính quyền từ Trung ương đến cơ sở; làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, tạo “hoài nghi” về tính đúng đắn của chủ trương, chính sách lãnh đạo và phủ nhận quyết tâm, cũng như kết quả PCTNTC của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Chúng ta biết rằng, trong những năm qua, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, đồng bộ, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, đạt nhiều kết quả rõ rệt, đột phá, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao. Báo cáo tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012-2022 có nêu “10 năm qua, cấp ủy, UBKT các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168 nghìn đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, UBKT Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng và sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Công tác thanh tra, kiểm toán đã kiến nghị xử lý trách nhiệm gần 44.700 tập thể, cá nhân sai phạm; kiến nghị thu hồi, xử lý tài chính hơn 975 nghìn tỷ đồng, gần 76 nghìn ha đất; chuyển cơ quan điều tra gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu tội phạm để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật…

Bước chuyển biến rõ nét trong công tác PCTNTC còn được thể hiện qua hiệu quả hoạt động của ngành thanh tra, kiểm toán khi có nhiều cố gắng, công tâm, khách quan, kiến nghị thu hồi, xử lý tài chính đạt nhiều chuyển biến rõ rệt. Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế được tiến hành kiên quyết, không khoan nhượng, không nương nhẹ, không làm oan, không bỏ lọt tội phạm, nhưng cũng rất nhân văn, có lý, có tình; có tác dụng cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa mạnh mẽ, được dư luận, nhân dân đồng tình, đánh giá cao.

Như vậy, cuộc chiến chống “giặc nội xâm” của Đảng ta đạt được những bước tiến dài vững chắc, không chỉ được quần chúng tin tưởng, ghi nhận mà còn được bạn bè trên thế giới và tổ chức quốc tế đánh giá cao. Cũng bởi vậy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Công tác PCTNTC đã trở thành xu thế không thể đảo ngược và có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả toàn diện, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội.

Những kết quả tích cực trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã góp phần củng cố niềm tin, tạo sự đồng thuận trong nhân dân. Đồng thời là minh chứng xác đáng phản bác những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận về kết quả phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta./.

NT11

NHẬN THỨC ĐÚNG ĐẮN VỀ QUAN ĐIỂM ĐỐI TÁC, ĐỐI TƯỢNG CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


 Thời gian gần đây, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, tín ngưỡng, tôn giáo và các vấn đề xã hội khác, những phần tử cơ hội chính trị ở trong nước cấu kết cùng với các thế lực thù địch ở nước ngoài tiếp tục đưa ra những luận điệu tuyên truyền, kiến nghị, đòi hỏi sai trái, cực đoan. Trong đó, đáng quan tâm là luận điệu đòi hỏi Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang ta cần phải “xác định rõ ràng và chính xác đối thủ, không biến thù thành bạn hoặc coi bạn là thù”, từ đó “phải liên minh với các nước cho phù hợp với xu thế của thời cuộc”.

Luận điệu, kiến nghị, đòi hỏi trên thể hiện nhận thức của họ về tư duy mới của Đảng trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay chưa đầy đủ và mang tính cực đoan.

Xác định đúng đối tượng, đối tác của Việt Nam là vấn đề quan trọng, căn cứ chủ yếu để đề ra chính sách đối nội, đối ngoại cùng với kế sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Về vấn đề này Đảng ta khẳng định rõ:“Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. (Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới).

Quan điểm của Đảng ta nêu trên vừa có tính khái quát cao, vừa đầy đủ, làm cơ sở để nhận thức và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng một cách bình tĩnh, sáng suốt, hiệu quả trong bối cảnh tình hình chính trị - an ninh thế giới hiện nay đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường, xong hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn.

Thực tế đã khẳng định về tính đúng đắn của quan điểm này, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tính cạnh tranh song hành cùng tính lệ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia đang ngày càng gia tăng. Bằng quan điểm, đường lối lãnh đạo đúng đắn đó, đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 192 trong 200 quốc gia trên toàn thế giới; thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới, tham gia hơn 70 tổ chức quốc tế và đóng vai trò là thành viên tích cực, chủ động và có trách nhiệm của các tổ chức này; thiết lập quan hệ kinh tế thương mại với 245 quốc gia và vùng lãnh thổ; thiết lập quan hệ quốc phòng với 80 quốc gia. Đặc biệt trong thời gian qua, nhờ vào đường lối đúng đắn Đảng, Nhà nước đã giải quyết hài hòa các mối quan hệ như: chúng ta vừa đấu tranh vừa hợp tác với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, xây dựng đường biên giới trên đất liền, trên biển; cùng với Lào và Campuchia phân định, cắm mốc, xây dựng đường biên giới hữu nghị, hòa bình, không để xảy ra mâu thuẫn, mất đi tình đoàn kết láng giềng mà bao thế hệ đi trước đã giày công vun đắp.

Với chính sách ngoại giao khéo léo, uyển chuyển theo lối ngoại giao “Cây tre”, trước những khó khăn và thách thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong thời gian qua chúng ta đã làm tốt mọi mặt, trước công luận quốc tế chúng ta luôn khẳng định “Việt Nam chọn lẽ phải chứ không chọn bên” để cho thấy Việt Nam luôn là bạn và là đối tác tin cậy của các quốc gia. Qua vấn đề này ta cần nhận thức sâu sắc hơn nữa về đường lối, quan điểm của Đảng nói chung và quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng của Việt Nam nói riêng là cơ sở để củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, góp phần phòng chống có hiệu quả “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” làm thất bại âm mưu thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

ĐQ11

                                                                            

 

NHẬN DIỆN NHỮNG TRANG MẠNG XÃ HỘI CÓ NỘI DUNG XẤU, ĐỘC CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

 


Những năm gần đây, thủ đoạn của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng chống đối trong và ngoài nước triệt để lợi dụng không gian mạng, chủ yếu là các ứng dụng của mạng xã hội, biến nó thành công cụ đắc lực cho hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Chúng tận dụng tối đa các hệ thống phát thanh, báo chí ở nước ngoài đăng tải trên các kênh Facebook, YouTube, hình ảnh, video… để tán phát thông tin xấu, độc, thiếu kiểm chứng, sai sự thật về tình hình an ninh, trật tự, khiếu nại, tố cáo, công tác quản lý, sử dụng đất đai ở địa phương dưới dạng “giả như thật”, “thật như giả” nhằm đánh vào tâm lý tò mò của người dân để xuyên tạc tình hình trong nước, chống Đảng, Nhà nước, phá hoại tư tưởng, công kích, bôi xấu, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo, gây chia rẽ nội bộ, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhất là trước, trong và sau thời gian diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII; bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 và công tác phòng, chống dịch COVID-19.

Đặc điểm của các trang mạng, diễn đàn, nhóm, hội kín có thể nhận diện: Một là, các trang mạng chính thống của cơ quan, tổ chức nhà nước đều có tên miền quốc gia “.vn” và có địa chỉ, thông tin đăng ký cụ thể, rõ ràng trên trang. Còn các trang mạng có tên miền nước ngoài (.com, .org) không có đuôi tên miền Việt Nam “.vn”, thường được đăng ký lưu trữ dữ liệu có máy chủ đặt ở nước ngoài. Đây là điều kiện để các thế lực thù địch, phần tử phản động lưu vong tự do đăng tải các thông tin không đúng sự thật; nếu như bị các cơ quan chức năng phát hiện cũng khó phối hợp với nhà cung cấp dịch vụ để tra cứu thông tin.

Hai là, thường xoáy sâu vào một chủ đề hoặc một nhân vật cụ thể; có nội dung thông tin không đúng sự thật hoặc chỉ có một phần nhỏ là đúng để làm cho người đọc tin tưởng vào các nội dung thông tin sai còn lại... Các đối tượng thường lợi dụng các sự kiện chính trị của đất nước, được nhiều người dân quan tâm như Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng, bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp… Khi các sự kiện trên chưa có thông tin chính thức từ phía của cơ quan chức năng thì các đối tượng tăng cường đăng tải các thông tin giả, thông tin hoàn toàn không có thật để kích động, làm cho người dân có thể hiểu sai vấn đề, bị lôi kéo thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật.

Ba là, hoạt động thời gian dài, có số lượng người theo dõi lớn, thường đăng tải nội dung nhắm đến nhiều tổ chức, người có chức, có quyền hoặc các vụ việc được nhiều người quan tâm; nội dung thông tin được đăng tải rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực, liên quan đến nhiều người, thường xuất hiện mang tính thời vụ, nội dung thông tin được đăng tải theo hướng trước hoặc trong thời gian diễn ra các dịp lễ, kỷ niệm lớn của đất nước. Trong thời gian này sẽ có nhiều người quan tâm, tiếp xúc với không gian mạng vì được nghỉ trong dịp lễ, thuận lợi cho việc kích động, lôi kéo xuống đường biểu tình, phản đối các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta.

Một số thủ đoạn đăng tải của các trang mạng xã hội: Một là, các đối tượng sử dụng “khoảng trống thông tin” khi các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước, báo chí chính thống chưa có thông tin chính thức, các đối tượng sẽ lợi dụng khai thác đặc tính ưu việt của các trang mạng xã hội làm lan tỏa thông tin bịa đặt, bóp méo sự thật, xuyên tạc vấn đề, “đổi trắng thay đen”, lẫn lộn đúng sai, thật giả hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu thù địch, lồng ghép, xâu chuỗi các vụ việc với nhau, tấn công trực diện vào sự hiếu kỳ của công chúng để chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Hai là, các đối tượng thường lợi dụng các trang mạng xã hội ở nước ngoài, có lưu trữ dữ liệu và hoạt động quản lý ở nước ngoài như Facebook, YouTube, Twitter… để lập các trang cá nhân hoặc các hội, nhóm có nội dung về dân chủ, nhân quyền; thậm chí có nhiều đối tượng lập tài khoản mạo danh các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước rồi liên tục đăng tải lên trang cá nhân, hội, nhóm những thông tin có nội dung xấu, độc, hoàn toàn trái ngược với sự chỉ đạo và sự giải quyết của chính quyền để kích động chống phá.

Ba là, các thế lực thù địch triệt để tận dụng các ứng dụng WhatsApp, FireChat và các biện pháp công nghệ được hỗ trợ từ nước ngoài để vượt tường lửa; Facebook là môi trường “lây lan” thông tin xấu, độc nhanh nhất, lợi dụng các thông tin tiêu cực, chống tiêu cực được báo chí trong nước đưa trên mạng để xuyên tạc nhằm bôi nhọ cá nhân, chống phá Nhà nước Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng… Thời gian gần đây, nhiều trang Facebook phản động đang giả dạng là những trang tin “tử tế” để tiếp cận người dùng, tăng số lượng người đăng ký theo dõi thường xuyên. Các trang này thường đưa những nội dung câu view nhằm đánh lạc hướng rồi đan cài những nội dung phục vụ ý đồ xấu của chúng. Chúng lợi dụng chức năng của mạng xã hội Facebook, YouTube (livestream) tường thuật trực tiếp sự việc trên các trang mạng xã hội để tán phát rộng rãi, số lượng người tiếp cận thông tin lớn cùng lúc, đồng thời, chuẩn bị lực lượng tiếp nhận video, biên tập ngay đề phòng bị lực lượng an ninh thu giữ máy quay trong lúc biểu tình.

Bốn là, các đối tượng còn sử dụng nhiều trang mạng xã hội để thực hiện hành vi đăng tải thông tin có nội dung xấu, độc chống phá Đảng, Nhà nước là tạo lập ra các trang mạng giả mạo của các cơ quan, tổ chức để thông tin, xuyên tạc, gây rối nội bộ... Người tiếp xúc với các trang mạng này do thiếu kỹ năng nên không biết đây là trang giả mạo, mà nghĩ đây là trang chính thức của tổ chức đảng, cơ quan nhà nước nên các trang đăng tải thông tin này được nhiều người đọc theo dõi và tin tưởng vào tính chính thống của nó, gây ra sự bất ổn chính trị, tạo dư luận xấu trong nhân dân, dẫn đến vi phạm pháp luật.

Năm là, các đối tượng phản động là nhà văn, nhà báo, ca sĩ… sử dụng thơ ca làm công cụ chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, thường chuyển hóa các bài viết có sẵn thành thể thơ hoặc bài hát phát trên các kênh âm nhạc trực tuyến; đặt máy chủ ở nước ngoài để vượt qua các cơ chế kiểm duyệt bài viết của Bộ Thông tin và Truyền thông./.

NT11

Nhận diện một số thủ đoạn lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam


          Lợi dụng truyền đạo trong đồng bào dân tộc thiểu số nhằm hình thành tư tưởng ly khai và chủ nghĩa dân tộc cực đoan; xuyên tạc chính sách tôn giáo nhằm can thiệp vào chính trị nội bộ, mặc cả trong các quan hệ đối ngoại của Việt Nam; tôn giáo hóa các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội; lợi dụng hạn chế trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam; lợi dụng vấn đề đất đai liên quan đến cơ sở tôn giáo; lợi dụng mạng xã hội và diễn đàn quốc tế; lợi dụng các hoạt động từ thiện xã hội. Cùng với các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, vấn đề tôn giáo cũng luôn bị các thế lực thù địch lợi dụng nhằm chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Có thể nhận diện một số cách thức, thủ đoạn mà chúng đã và đang sử dụng:

          1. Lợi dụng truyền đạo trong đồng bào dân tộc thiểu số nhằm hình thành tư tưởng ly khai, dân tộc cực đoan

          Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, đồng bào các dân tộc, tôn giáo đoàn kết, cùng chung sống hòa bình, thân thiện với nhau. Trong lịch sử, một số chức sắc, tín đồ tôn giáo và đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá cách mạng. Lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam và khó khăn về kinh tế - xã hội ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các thế lực thù địch đã lợi dụng việc truyền đạo trái pháp luật để gây ra những vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự, thậm chí tạo những điểm nóng CT-XH, nhằm tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

          Ở khu vực miền núi phía Bắc, những thập niên gần đây, chúng lợi dụng sự chuyển đổi niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo gắn với lịch sử, tâm lý của người Mông để kích động ly khai, thành lập “Nhà nước Mông tự trị” nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc. Sự kiện lợi dụng đạo Tin lành tuyên truyền, tập trung hàng nghìn người Mông tại bản Huổi Khon, huyện Nậm Bồ, tỉnh Điện Điên năm 2011 với âm mưu gây bạo loạn và vụ việc vài trăm người Mông (xã Tà Tổng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu) bị các phần tử phản động tuyên truyền, kích động đã trốn vào rừng nhằm tiếp tục âm mưu tuyên truyền, gây bạo loạn vào tháng 2-2020 (trong đó có nhóm người đã từng gây ra vụ bạo loạn năm 2011 tại Mường Nhé) cho thấy, các thế lực thù địch vẫn chưa từ bỏ âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để thúc đẩy hoạt động ly khai trong người Mông tại Việt Nam.

          Ngoài việc lợi dụng đạo Tin lành, ở một số địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc, các phần tử phản động cũng tăng cường lợi dụng một số hiện tượng tôn giáo mới. Hiện tượng “Con đường mới” (ở huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu), hiện tượng “Giê Sùa” (tại Điện Biên, Lai Châu) cũng đã bị lợi dụng để lôi kéo người Mông nhằm tập hợp lực lượng phục vụ cho hoạt động thành lập “Nhà nước Mông”. Ở một số địa phương như Tuyên Quang, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn và Lào Cai, một số người Mông theo hiện tượng “Dương Văn Mình” cũng bị lôi kéo vào các hoạt động chống đối Nhà nước như: không tham gia hoạt động bầu cử, tổ chức biểu tình, khiếu kiện, khiếu nại,...

          Tại khu vực Tây Nguyên, các thế lực Fulro, có sự tiếp tay từ nước ngoài, đã kích động đồng bào dân tộc thiểu số gây ra các vụ bạo loạn chính trị nhằm lật đổ chính quyền, âm mưu thành lập nhà nước “Đề ga tự trị”. Sự kiện chính trị năm 2001 và 2004 cùng các vụ việc phức tạp liên quan đến vấn đề tôn giáo, dân tộc kéo dài nhiều năm ở Tây Nguyên cho thấy rõ âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo, dân tộc của các thế lực thù địch, phản động nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và chống phá Nhà nước Việt Nam.

          Ở trong nước, tàn dư của lực lượng Fulro có dấu hiệu hoạt động trở lại khi chúng lợi dụng các hiện tượng tôn giáo mới như “Hà Mòn”, “Bơ khắp Brâu” để truyền bá mê tín dị đoan và hoạt động chính trị, gây phức tạp tình hình an ninh, trật tự xã hội ở một số địa phương.

          2. Xuyên tạc chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam nhằm kiếm cớ can thiệp vào chính trị nội bộ, tạo sức ép và mặc cả trong các quan hệ đối ngoại

          Trong những năm qua, các phần tử phản động là người Việt Nam ở trong và ngoài nước đã câu kết với các thế lực thù địch nước ngoài chống phá Việt Nam bằng cách công bố những báo cáo sai sự thật về tự do tôn giáo ở Việt Nam thông qua cách tiếp cận thông tin một chiều, phiến diện, thiếu thiện chí.

          Năm 1998, Quốc hội Mỹ ban hành Đạo luật tự do tôn giáo quốc tế và thành lập Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Mỹ. Theo quy định của Đạo luật này, cán bộ ngoại giao của Mỹ ở các quốc gia có trách nhiệm thu thập thông tin về tình hình tự do tôn giáo ở nước sở tại. Ngoại trưởng và các đại sứ lưu động về tự do tôn giáo quốc tế Mỹ, hằng năm sẽ phải trình lên Quốc hội “Báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế, bổ sung các báo cáo mới nhất về nhân quyền với những thông tin chi tiết về các vấn đề liên quan tới tự do tôn giáo quốc tế”. Trên cơ sở báo cáo của Ngoại trưởng cùng một số nguồn thông tin khác, Văn phòng Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Mỹ sẽ tổng hợp và báo cáo Quốc hội về tình hình tự do tôn giáo của mỗi quốc gia. Các bản báo cáo này sẽ được chính quyền Mỹ sử dụng để xây dựng chính sách, triển khai công tác ngoại giao và trừng phạt các nước mà họ cho là có vi phạm tự do tôn giáo. Đây là quy định nhằm can thiệp trắng trợn vào nội bộ nước khác dưới chiêu bài tự do tôn giáo kiểu Mỹ.

          Riêng với Việt Nam, trong các năm từ 2004 đến 2006, Mỹ cáo buộc Việt Nam có vi phạm tự do tôn giáo và đưa Việt Nam vào Danh sách các nước cần được quan tâm đặc biệt (CPC). Sau nhiều năm, với sự đấu tranh kiên quyết và thực tiễn thực hiện chính sách, pháp luật tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, Mỹ đã phải đưa Việt Nam ra khỏi danh sách CPC. Tuy nhiên, một số chính khách cực đoan thiếu thiện chí với Việt Nam ở các nước như Mỹ, Anh, Đức, Canađa và các phần tử phản động người Việt Nam vẫn luôn ráo riết tác động tới Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Mỹ và Tổ chức theo dõi nhân quyền có trụ sở ở Mỹ, để thông qua các báo cáo, các nghị quyết, thông cáo, phúc trình có nội dung xuyên tạc, làm cho cộng đồng quốc tế hiểu sai về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, nhằm đưa Việt Nam trở lại danh sách CPC, bất chấp những nỗ lực của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm tự do tôn giáo cho người dân.

          Báo cáo thường niên của Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Mỹ trong các năm 2017, 2018, 2019, 2020, 2021 đã có những nhận định thiếu khách quan và xuyên tạc trắng trợn về tự do tôn giáo ở Việt Nam như: Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam “quy định sự kiểm soát đáng kể của Chính phủ đối với các hoạt động tôn giáo và bao gồm các điều khoản mơ hồ cho phép hạn chế quyền tự do tôn giáo”; “Tín đồ tôn giáo bị nhà chức trách sách nhiễu”; “Chính phủ Việt Nam đàn áp mọi tôn giáo, bắt giữ những người biểu tình ôn hòa để đòi hỏi tự do tín ngưỡng và tự do thờ phụng”; “Các tôn giáo ở Việt Nam bị buộc im tiếng hay biến thành công cụ của nhà nước”; “Nhà nước Việt Nam gây khó khăn cho việc đăng ký và công nhận tổ chức tôn giáo”; Các nhân vật đấu tranh cho tự do tôn giáo luôn bị nhà nước gây khó khăn trong hoạt động, bị hạn chế đi lại; Ở Việt Nam có các “tù nhân lương tâm”, “tù nhân tôn giáo”(1)...

          Đó là những cáo buộc rất thiếu thiện chí, áp đặt với ý đồ xấu, hậu thuẫn cho các hoạt động vi phạm pháp luật của một số chức sắc, tín đồ tôn giáo cực đoan ở Việt Nam với chiêu bài “đấu tranh cho tự do tôn giáo”, “dân chủ, nhân quyền”. Đồng thời, thông qua những cáo buộc này, một số chính khách phương Tây nêu điều kiện, yêu sách đối với Việt Nam trong các quan hệ ngoại giao, nhằm đưa Việt Nam vào quỹ đạo ảnh hưởng, phục vụ cho lợi ích của họ và hòng từng bước chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam; đưa Việt Nam theo hướng tự do, dân chủ kiểu phương Tây; tạo cớ để can thiệp vào công việc nội bộ, chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây bất ổn chính trị, xã hội ở Việt Nam.

          3. Tôn giáo hóa các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội

          Những năm qua, lợi dụng những sơ hở, hạn chế trong quản lý kinh tế - xã hội của Việt Nam, các phần tử phản động trong và ngoài nước đã kích động một số chức sắc, nhà tu hành xúi giục đồng bào theo đạo biểu tình, phản đối các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Điển hình như: sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung năm 2016 do Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh gây ra, đã bị chúng kích động, lôi kéo dẫn đến hàng nghìn tín đồ Công giáo tụ tập, biểu tình, ngăn chặn các phương tiện giao thông qua lại, đập phá tài sản công, tấn công lực lượng chức năng...; vụ việc 39 người Việt tử vong trong container ở Vương quốc Anh cũng bị một số chức sắc tôn giáo lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc chính sách của Đảng, Nhà nước, đổ lỗi cho Đảng, Nhà nước gây ra nghèo đói, khiến người dân phải bỏ đất nước ra đi kiếm sống và bỏ mạng nơi xứ người,...

          Năm 2018, khi Nhà nước Việt Nam chuẩn bị thông qua một số dự luật như: Dự luật an ninh mạng, Dự luật đặc khu kinh tế - hành chính Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc, một số chức sắc tôn giáo, nhà tu hành bị lợi dụng bởi các thế lực xấu đã kích động người dân tham gia biểu tình phản đối Đảng, Nhà nước.

          Đặc biệt, những năm gần đây, tình hình tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến việc thực thi pháp luật về đất đai, xây dựng của chính quyền và người dân xảy ra ở nhiều địa phương. Một số đối tượng cực đoan trong tôn giáo đã lợi dụng vào đó để kích động tín đồ, gây phức tạp về an ninh chính trị.

          Năm 2020, ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội, các đối tượng cực đoan, phản động đã xúi giục, thúc ép một số người dân cố tình xâm phạm đất quốc phòng, tổ chức bắt giam cán bộ, chống đối người thi hành công vụ và tấn công lực lượng chức năng khiến 3 cảnh sát hy sinh, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Khi các cá nhân phạm tội bị xử lý theo quy định của pháp luật thì một số chức sắc tôn giáo đã lợi dụng các buổi giảng đạo, lên tiếng phê phán Đảng, Nhà nước và kích động tín đồ biểu tình chống đối.

          Có thể nói, các thế lực thù địch đã dùng thủ đoạn“tôn giáo hóa” các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội để chống phá Việt Nam. Các âm mưu, thủ đoạn đó đã tác động tiêu cực đối với xã hội, gây phức tạp về an ninh trật tự tại một số địa bàn, làm giảm sút niềm tin của một bộ phận chức sắc và đồng bào theo đạo đối với Đảng, Nhà nước ta.

          4.  Lợi dụng hạn chế trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam để công kích Đảng, Nhà nước, công kích chế độ

          Trong thời kỳ đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, vị thế của Việt Nam ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế. Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia khác, quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam cũng không tránh khỏi một số hạn chế trong công tác quản lý, điều hành trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội nói chung và trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo nói riêng.

          Lợi dụng những tồn tại, hạn chế này, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã thổi phồng, quy kết mọi tồn tại, hạn chế đó là do sự sai lầm, yếu kém trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, điều hành của Nhà nước. Từ đó, chúng xúi giục một số chức sắc tôn giáo và một số đối tượng phản động là người dân tộc thiểu số kích động tín đồ và đồng bào dân tộc thiểu số khiếu kiện, nêu yêu sách với các danh nghĩa như: đòi quyền lợi cho tôn giáo, quyền lợi cho người dân tộc thiểu số, bảo vệ cuộc sống của người dân, của các nhóm yếu thế, kích động di cư tự do, xuất cảnh trái phép gây khó khăn cho công tác quản lý, gây mất an ninh trật tự, bất ổn chính trị tại một số địa bàn. Âm mưu của các thế lực thù địch là tạo ra các lực lượng chống đối Đảng, Nhà nước ngay trong lòng đất nước, tạo nên sự liên kết chống đối trong và ngoài nước hòng tạo cơ hội lật đổ chế độ thông qua các phong trào kiểu như “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” tại Việt Nam.

          5. Lợi dụng vấn đề đất đai liên quan đến cơ sở tôn giáo

          Những năm gần đây, vấn đề đất đai tôn giáo ở Việt Nam có nhiều diễn biến phức tạp. Các vụ tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai tôn giáo xảy ra ở nhiều địa phương trên cả nước. Lợi dụng vấn đề tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai tôn giáo, các thế lực thù địch đã kích động tín đồ các tôn giáo với chiêu bài “bảo vệ quyền lợi của giáo hội”, “bảo vệ quyền lợi của tín đồ tôn giáo” để lôi kéo tín đồ tôn giáo tụ tập, biểu tình, nêu yêu sách đòi lại đất đai, gây rối an ninh trật tự, chống người thi hành công vụ. Nhiều vụ việc từ khiếu kiện đất đai đơn thuần đã đã trở thành điểm nóng về an ninh trật tự và tạo cớ để các thế lực bên ngoài lên tiếng, phê phán Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, điển hình như các vụ việc: đền bù, giải tỏa đất tại số 178 Nguyễn Lương Bằng và số 42 Nhà Chung (Hà Nội), vụ Tam Tòa (Quảng Bình), vụ giáo xứ Cồn Dầu (Đà Nẵng), vụ chùa Liên Trì (Thành phố Hồ Chí Minh)và gần đây là các vụ việc phức tạp tại giáo phận Vinh, Kon Tum, v.v.. Các vụ việc khiếu kiện nói trên đã bị một số chức sắc Công giáo cực đoan lợi dụng, kích động người dân tụ tập, biểu tình chống đối Đảng, Nhà nước; kêu gọi tín đồ Công giáo hiệp thông để “đòi quyền lợi cho giáo hội và quyền lợi cho giáo dân”; kêu gọi các tổ chức quốc tế gây sức ép buộc Nhà nước Việt Nam phải trả lại đất đai cho tôn giáo,...

          Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam, mặc dù đều đã được Nhà nước cấp đất xây dựng cơ sở theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tại một số địa phương, một số chức sắc đã lợi dụng, tuyên truyền, xúi giục tín đồ chuyển nhượng đất trái pháp luật cho cơ sở tôn giáo. Thậm chí, có nơi chức sắc còn xúi giục tín đồ lấn chiếm đất để mở rộng khuôn viên, xây dựng cơ sở thờ tự trái pháp luật. Khi các cơ quan quản lý nhà nước xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai liên quan đến tôn giáo thì các thế lực phản động tuyên truyền rằng, Nhà nước đàn áp tôn giáo, gây khó khăn cho sinh hoạt tôn giáo của người dân.

 

 

          6. Lợi dụng mạng xã hội, diễn đàn quốc tế để xuyên tạc, bịa đặt về tự do tôn giáo ở Việt Nam

          Hiện nay, các phần tử phản động và một số đối tượng cực đoan trong các tôn giáo đang ráo riết tranh thủ sự bùng nổ của mạng xã hội để tán phát, chia sẻ nhiều tài liệu có nội dung xuyên tạc chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam “đàn áp tôn giáo”; gây chia rẽ nội bộ các tôn giáo bằng cách công kích các chức sắc, tín đồ tôn giáo tiến bộ, yêu nước, tích cực tham gia các tổ chức chính trị - xã hội; kêu gọi tín đồ tẩy chay tổ chức Giáo hội mà chúng cho là “do Nhà nước lập ra”; tuyên truyền kích động tín đồ đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam, đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, đòi xây dựng xã hội dân sự Việt Nam kiểu phương Tây. Chúng kêu gọi chính phủ các nước phương Tây lấy vấn đề tự do tôn giáo làm điều kiện trong đàm phán, ký kết các thỏa thuận hợp tác song phương, đa phương để buộc Nhà nước Việt Nam chấp nhận tự do tôn giáo trái với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.

          Chúng còn lợi dụng các diễn đàn quốc tế, gặp gỡ các chính khách phương Tây để xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Hai nhân vật tôn giáo lưu vong là Mục sư Tin lành A Ga - người dân tộc thiểu số Tây Nguyên và tín đồ đạo Cao đài Lương Xuân Dương đã gặp Tổng thống Mỹ Donald Trump vào tháng 7-2019, xuyên tạc về tự do tôn giáo ở Việt Nam, đề nghị Mỹ đưa Việt Nam trở lại Danh sách các nước cần được quan tâm đặc biệt. Có thể nói, đó là những hành động nực cười, phản động của những kẻ vong bản, quay lưng lại với quê hương, đất nước của họ.

Trong bối cảnh tình hình chính trị thế giới phức tạp hiện nay, các hoạt động lợi dụng tôn giáo nhằm chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam cũng vô cùng đa dạng, phức tạp. Do đó, nhận diện âm mưu, thủ đoạn, cách thức lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch để chủ động có những đối sách kịp thời nhằm bảo đảm sự ổn định và phát triển đất nước là yêu cầu cấp thiết đặt ra cho công tác tôn giáo của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.

TB11