Hiện nay, các
thế lực thù địch, phản động, chống đối chính trị ra sức rêu rao, xuyên tạc Việt
Nam ngăn cản tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, là kẻ thù của tự do báo
chí trên mạng. Họ chỉ trích chính quyền bắt, truy tố tùy tiện người chống đối;
kiểm duyệt, đóng các trang mạng, ra các luật mang tính chất hình sự; chính quyền
xiết chặt, kiềm tỏa các quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội, nhóm ôn hòa, tự do
đi lại và tự do tôn giáo, v.v. Họ ngộ nhận về quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí dẫn tới cho rằng các quyền này là tuyệt đối, nhằm kích động, tẩy chay và trả
đũa nhau khốc liệt, kể cả bôi nhọ, chống đối chế độ xã hội, đặc biệt thông qua
livestream “bẩn” trên mạng xã hội,...Từ đó, thúc đẩy thành lập một số tổ chức
nhân danh văn chương, báo chí, như: “Văn đoàn độc lập”, “Hội nhà báo độc lập”,
“Phóng viên không biên giới”,… để chống đối chế độ, xuyên tạc Nhà nước ta bắt,
bỏ tù nhà báo độc lập, đấu tranh cho cái gọi là tự do ngôn luận. Bên cạnh đó,
chúng đưa ra bảng xếp hạng sai lệch về tự do báo chí ở Việt Nam; gây sức ép đòi
thả tự do cho các đối tượng bị cơ quan chức năng bắt giữ do vi phạm pháp luật
Việt Nam mà họ gọi là bắt, bỏ tù “nhà báo báo độc lập”, “blogger”, v.v.
Đây là những
luận điệu xuyên tạc, lố bịch, bởi: Tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người,
trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quan điểm xuyên suốt, nhất
quán của Đảng, Nhà nước ta. Với quan điểm đề cao vai trò của báo chí là diễn
đàn của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, để nhân dân
trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình. Thông qua đó báo chí thực
hiện chức năng phản biện xã hội, đề xuất những ý kiến tâm huyết đối với Đảng,
Nhà nước, định hướng dư luận trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Thực
hiện quan điểm đó, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin. Quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin đã được Hiến pháp (năm
2013), Luật Báo chí (năm 2016) và Luật Tiếp cận thông tin (năm 2016) quy định
trách nhiệm của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự
do báo chí, tự do ngôn luận; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân
biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; bảo đảm cung cấp
thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân. Đặc
biệt, báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng.
Hiện nay, Việt
Nam có khoảng 41.000 nhân sự đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí, với 779 cơ
quan báo chí (trong đó có: 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc
lập), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh - truyền hình với tổng số
87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền hình. Tính tới tháng 6/2021, số lượng người
dùng internet là gần 70 triệu người, tăng 0,8% trong giai đoạn 2020 - 2021 (chiếm
hơn 70% dân số); số người sử dụng mạng xã hội là gần 76 triệu người, tăng gần
10 triệu người trong vòng 01 năm (tương đương 73,7% dân số). Việt Nam được đánh
giá là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng
thứ sáu trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á.
Mặt khác, quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin không phải là quyền tuyệt đối
mà là quyền có giới hạn. Tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin được
xem là nguyên tắc cơ bản cho một nền dân chủ, thậm chí được ví như là “khí ôxy”
trong một xã hội dân chủ và phát triển; nhưng không được cộng đồng quốc tế thừa
nhận là quyền tuyệt đối. Các văn kiện quốc tế về quyền con người, như: Tuyên
ngôn Thế giới về quyền con người năm 1948 (Điều 29), Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị năm 1966 (Điều 19) đều khẳng định: việc thực hiện quyền
tự do ngôn luận phải kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt, có thể phải
chịu một số hạn chế nhất định được quy định trong luật và là cần thiết nhằm tôn
trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự
công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội.
Để tiệm cận với
các chuẩn mực quốc tế về quyền con người, Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện
khung pháp lý bảo đảm quyền tự do ngôn luận, bảo đảm nguyên tắc báo chí, nhà
báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được pháp luật bảo hộ; nghiêm cấm mọi
hành vi lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Mọi
hành vi vi phạm pháp luật đều được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý
theo trình tự, thủ tục luật định, bảo đảm công khai, minh bạch, đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, cũng không bỏ lọt tội phạm. Đồng
thời, theo dõi, khảo sát, đánh giá và kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện
hệ thống pháp luật, chính sách, phù hợp với các quy tắc điều chỉnh hành vi văn
hóa trong sinh hoạt cộng đồng xã hội, nhất là trên không gian mạng.
Việt Nam
không ngăn cấm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận cũng như hoạt động mạng xã
hội. Tuy nhiên, các hoạt động đó phải tuân thủ theo hiến pháp và pháp luật Việt
Nam. Mọi người dân Việt Nam đều bình đắng trước pháp luật. Nhận thức rõ vấn đề
này để có thể phản bác lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Đ.H11
0 nhận xét:
Đăng nhận xét