Chủ nghĩa cơ hội là một trào lưu tư
tưởng chính trị hình thành trong phong trào công nhân, thể hiện sự thích nghi
với lợi ích của tầng lớp tiểu tư sản và bộ phận giai cấp công nhân đã bị tư sản
hóa.
Chủ nghĩa cơ hội thể hiện ở quan
điểm tư tưởng chính trị mơ hồ, không nhất quán, lu mờ tính giai cấp, tính đảng
và tính nguyên tắc về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, về cách mạng xã
hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế
quốc...
Theo mô tả của C.Mác, những kẻ cơ
hội chủ nghĩa “dốt nát về mặt lý luận nhưng lại giàu có về các thủ đoạn”. Bởi
vậy, cần sáng suốt nhận diện, chỉ rõ chân tướng để có các giải pháp phòng,
chống, đẩy lùi và khắc phục ảnh hưởng của nó đối với các tổ chức đảng và sự
nghiệp cách mạng… Đến nay, chủ nghĩa cơ hội không còn biểu hiện đơn thuần là
mâu thuẫn giữa hai luồng tư tưởng nữa, mà đã hóa thân thành “muôn hình vạn
trạng”, hòa vào xã hội như một “căn bệnh” quái ác, ăn dần ăn mòn lập trường, tư
tưởng của người bị tiêm nhiễm nó. Kẻ cơ hội, xét lại chỉ khoác áo Mác-xít,
“trung thành” với chủ nghĩa Mác - Lênin trên lời nói, còn về thực chất, từ lâu
họ đã phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong bối cảnh mới, sự biến động
chính trị ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thập niên 80, đầu 90 của thế kỷ
XX dẫn tới sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực, hệ thống xã hội chủ
nghĩa tan rã, cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái trào. Chủ nghĩa đế quốc
coi đây là thời cơ lớn, đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” để nhanh chóng
xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam với tham vọng
đạt mục tiêu “không đánh mà thắng”, “chiến thắng không cần chiến tranh”.
Chúng chú trọng thúc đẩy quá trình
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, lấy đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy Nhà
nước làm trọng điểm. Bằng nhiều phương thức, thủ đoạn thâm độc, chủ nghĩa đế
quốc tìm mọi cách tác động, móc nối, câu kết với các phần tử thoái hóa, biến
chất chống đối, cơ hội chủ nghĩa ở trong nước để tập hợp lực lượng, lập mặt
trận thống nhất chống phá cách mạng Việt Nam từ cả hai hướng ngoài đánh vào,
trong phá ra - “nội công, ngoại kích”.
Thực tiễn 35 năm đổi mới đã cho
thấy, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đất nước đã có những đổi thay rõ rệt,
đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, vị thế quốc tế không ngừng
được nâng cao. Dẫu những kẻ cơ hội chủ nghĩa có cố tình xuyên tạc thực tế lịch
sử, thì chúng vẫn không thể làm thay đổi được lòng tin của quần chúng nhân dân
vào sự biến chuyển theo hướng tích cực ấy.
Để tăng cường hiệu quả của cuộc đấu
tranh này, đòi hỏi sự đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp,
triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ
nhất, thường xuyên chăm lo tuyên truyền,
giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin của toàn Đảng, toàn dân vào
sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới; xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên có đủ cả đức và tài, trong đó lấy đức là “gốc”. Qua đó, không ngừng
nâng cao lòng yêu nước, biến quyết tâm chung của toàn Đảng, toàn dân thành tinh
thần cống hiến hy sinh, phấn đấu của mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân
vì thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, vì hạnh phúc của nhân dân.
Cần kết hợp chặt chẽ giáo dục, rèn
luyện toàn diện với xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên là then chốt, gắn tư
tưởng với tổ chức. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo: “Một dân
tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”; “Vì chưa gột rửa
sạch chủ nghĩa cá nhân, cho nên có đảng viên còn “kể công” với Đảng".
Thứ
hai, tiếp tục thực hành và nâng cao dân
chủ trong điều kiện một Đảng cầm quyền. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin đã nghiên cứu, chỉ rõ tính tất yếu ra đời của nền dân chủ vô sản thay thế
nền dân chủ tư sản. Trong mỗi cuộc cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản
nhất thiết phải đoạt lấy dân chủ từ tay giai cấp tư sản: “Dân chủ tức là chính
quyền của nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên quan niệm “dân chủ” trong
mối quan hệ không tách rời với các quan niệm “dân là gốc”, “dân là chủ”, “dân
làm chủ”… Thực hành dân chủ trong Đảng, phát huy sức mạnh lãnh đạo của Đảng làm
mẫu mực để phát huy cao nhất sức mạnh làm chủ của nhân dân. Mở rộng dân chủ
trong Đảng làm cơ sở tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo lập và định hướng hoạt động của xã hội theo hướng
ngày càng mở rộng các quyền và quy chế thực thi dân chủ. Sự thống nhất về tư
tưởng và hành động của Đảng, giai cấp công nhân và dân tộc là cơ sở để thực
hành, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội.
Thứ
ba, dân chủ gắn liền với kỷ cương, có
khuôn khổ, trật tự; chỉ có thể thực hiện dân chủ đi đôi với kiên quyết chống
các biểu hiện đối lập với dân chủ. Hơn nữa, không thể có dân chủ mà lại thiếu
hệ thống pháp luật, trật tự, kỷ cương để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Những yêu cầu dân chủ của nhân dân phải được thể chế hóa thành các chuẩn mực
mang tính nhà nước và pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà
nước cũng như các tổ chức xã hội khác.
Thực hành dân chủ trong Đảng là làm
cho tính dân chủ trong Đảng được mở rộng, phát huy cao độ trí tuệ tập thể xây
dựng nghị quyết lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo để đưa sự nghiệp cách mạng đi đúng
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Dân chủ trong Đảng xa lạ với
những tư tưởng thủ cựu, độc đoán, chuyên quyền, độc quyền chân lý, cũng như
thói quen tự do vô kỷ luật, không chấp hành nghị quyết, không phục tùng chân
lý. Như vậy, dân chủ gắn với tập trung, chấp hành kỷ luật nghiêm minh, tự giác.
Đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản của chính đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân, yếu tố cơ bản để phân biệt một Đảng cách mạng chân chính với các đảng
phái cơ hội, hữu khuynh trong phong trào công nhân, mảnh đất dung dưỡng các
phần tử cơ hội, xét lại hoạt động phá hoại. Phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận
Đảng Cộng sản từ bản chất. Đảng chống tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên
quyền, song triệt để tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ. “Chỉ có thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ mới bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động của
Đảng, chỉ có như vậy Đảng mới có sức mạnh và sức chiến đấu”.
Trong công tác tư tưởng, sinh hoạt
chính trị: khuyến khích tự do tư tưởng, không áp đặt khi có các ý kiến khác
nhau, thậm chí đối lập nhau; cần biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến đa số, đồng
thời có cơ chế bảo lưu ý kiến của thiểu số; tôn trọng ý kiến cấp trên nhưng
cũng có cơ chế bảo lưu ý kiến cấp dưới; định rõ thời hạn xem xét, kết luận,
thông báo về các ý kiến thiểu số. Nghiêm cấm việc lạm dụng quyền tự do, dân chủ
tuyên truyền quan điểm cá nhân đối lập với đường lối, nghị quyết của Đảng. Khắc
phục tình trạng thiếu trật tự, kỷ cương, kỷ luật, mất đoàn kết kéo dài ở không
ít cấp ủy, tổ chức đảng các cấp là góp phần phòng ngừa, đấu tranh với chủ nghĩa
cơ hội ngay từ mầm mống phát sinh./.
T.B
0 nhận xét:
Đăng nhận xét