Trong thời
bình hiện nay, bên cạnh việc phát triển đất nước, chúng ta phải đối phó với
muôn vàn thách thức đặt ra. Một trong số đó là việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng ta. Đó chính là bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa
Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp quyết định bước phát triển mới về chất
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu không có Chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh cũng
chỉ là một nhà yêu nước như bao nhà yêu nước khác ở Việt Nam đầu thế kỷ 20:
Chung một khát vọng giải phóng dân tộc, mong muốn giành lấy tự do, độc lập nhờ
vào sự giúp đỡ của nước ngoài.
Chính Chủ
nghĩa Mác-Lênin đã trang bị cho lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thế giới quan, nhân sinh
quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng để Người tìm ra con đường cứu nước
mới, đưa Người vượt lên phía trước mọi thiên kiến hẹp hòi, khắc phục căn bản sự
khủng hoảng về chính trị, sự bế tắc về đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc,
“gieo mầm cộng sản” trên quê hương Việt Nam.
Sự phát triển
tư tưởng mác-xít ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 là kết quả tất yếu của quá trình
xâm nhập, thẩm thấu Chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam, gắn liền với công lao to lớn
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc; nhờ đó mà tư tưởng yêu nước gắn liền với tư tưởng
quốc tế vô sản.
Mục tiêu cứu
nước, cứu dân ở Việt Nam đầu thế kỷ 20 được dẫn dắt bởi một lý luận khoa học,
cách mạng soi sáng, dẫn đường. Vì lẽ đó, Chủ nghĩa Mác-Lênin đóng vai trò là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, vũ trang lý luận cho con
đường đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân, giúp họ thực hiện khát vọng
giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
Rõ ràng, với
việc trang bị thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng
của Chủ nghĩa Mác-Lênin cho đội ngũ cán bộ cốt cán ở Việt Nam vào đầu thế kỷ
20, Hồ Chí Minh đã giúp họ hòa nhập vào cách mạng thế giới, sáng lập ra Đảng Cộng
sản Việt Nam-Đảng mácxít-lêninnít kiểu mới, đội tiên phong của giai cấp công
nhân, bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Việt Nam.
Từ đây, tinh
thần “biện chứng pháp” của Chủ nghĩa Mác-Lênin đã thể hiện sâu sắc trong các
văn kiện, nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng. Các văn kiện thành lập Đảng
như Chính cương vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Hồ Chí Minh khởi thảo và các nghị quyết của Đảng ta soạn thảo từ năm 1930 đến
nay đều thể hiện tinh thần sống động của Chủ nghĩa Mác - Lênin, thấm nhuần sâu
sắc giá trị khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử
và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Những điều
nêu trên đã giải nghĩa sâu sắc lý do vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau
như một, nhất quán với lập trường, quan điểm lấy Chủ nghĩa Mác -Lênin làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; vì sao chúng ta phải kiên định, trung
thành và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin trong bối cảnh mới; không được
mắc sai lầm trong nhận thức, vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam sao cho phù hợp.
Đó cũng là điều
giải thích rõ ràng vì sao bên cạnh Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
đã trở thành nội dung đặc biệt quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng và
cách mạng Việt Nam. Vì sao Bộ Chính trị khóa XII lại ban hành Nghị quyết số
35-NQ/TW về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, với mục tiêu và ý nghĩa là phải
bảo vệ bằng được thành trì lý luận chính trị của Đảng, bảo đảm cho kim chỉ nam
của Đảng luôn chỉ đúng hướng và ngày càng chi phối, thấm sâu vào tư tưởng của mọi
cán bộ, đảng viên và đời sống tinh thần xã hội.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét